Tuesday, November 6, 2012

" VIỆT KIỀU " - HÒA HỢP HÒA GIẢI để "XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG"


"Chỉ có loài thú mới quay lưng trước nỗi thống khổ của đồng loại để chăm sóc bộ lông của mình"
























Việt kiều TRỊNH VĨNH BÌNH
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2005/05/050520_trinhvinhbinh.shtml





Việt kiều NGUYỄN LÂM THÁI
http://www.laodong.com.vn/Home/Nguyen-Lam-Thai-bi-tuyen-phat-26-nam-tu/20085/89496.laodong
 




Việt kiều TRẦN TRƯỜNG :


http://www.tuoitre.com.vn/tianyon/Index.aspx?ArticleID=130407&ChanelID=120















KẾT QUẢ TRẦN TRƯỜNG
 











Việt kiều HOÀNG VI ĐẮC 


Vụ một thương gia "làm ăn lớn" tại Sài Gòn là Hoàng Vi Đắc phải trốn sang Mỹ, sau khi bị Việt Cộng trấn lột, "bỏ của chạy lấy người." Đây cũng không phải là trường hợp đầu tiên.

Judge Grants Asylum to Vietnamese Businessman

http://thomas.loc.gov/cgi-bin/query/z?j107:I05451:j107HILL.html

Judge Ira Bank's ruling this week will allow Dac Vi Hoang, his wife and their 15-year-old daughter to remain in the United States. ...






Vụ một thương gia "làm ăn lớn" tại Sài Gòn là Hoàng Vi Đắc trốn sang Mỹ, sau khi bị Việt Cộng trấn lột, "bỏ của chạy lấy người." Đây không phải là trường hợp đầu tiên. Những năm trước,khi khối Liên Sô xụp đổ, CSVN mất chỗ dựa,lâm vào ngõ bí, và để sống còn, nên Hà Nội bắt buộc phải "mở cửa", để thu hút ngoại tệ của Tư Bản và Việt kiều để sống sót. 
Cộng Sản "mở cửa" chỉ để tránh sự dồn ép muốn bùng nổ, do tình trạng nghèo khổ cùng cực trong toàn dân, chỉ để có tiền nuôi dưỡng bộ máy trấn áp Công an Quân đội, chỗ dựa duy nhất cho chế độ kìm kẹp.
Như bất cứ hành động nào của VC, sự "mở cửa" hoàn toàn không phải vì lợi ích dân tộc, mà chỉ để tìm lối thoát cho bạo quyền. Những năm đầu thập niên 90, sau vụ "mở cửa", không ít Tư Bản nước ngoài, ngây thơ tưởng Việt Nam sẽ là một « ùEldoradó » mới, nhào vào đầu tư.
Rút cục sau vài năm đều thua lỗ, "ôm đầu máu" rút ra vì tình trạng vô luật pháp, không làm ăn nổi với sự tham nhũng, tráo trở của VC. Cũng thời gian này, một số Việt Kiều nhẹ dạ, tiêu biểu là Nguyễn Trung Trực từ Úc, Trịnh Vĩnh Bình từ Hòa Lan, đem hàng triệu dollars về "kinh doanh". Làm ăn khấm khá được vài năm, có lúc đã được báo chí quốc tế bình luận, cho đây là điển hình về sự thành công, hợp tác, của Việt kiều.
Nhưng rồi rút cục, tất cả đều tiền mất tật mang, tài sản bị tịch thâu và nằm tù, do bất cứ một tội trạng nào mà VC có thể tưởng tượng ra ! Trường hợp thương gia Hoàng Vi Đắc vừa qua cũng lại thêm một thí dụ điển hình về những "con thiêu thân" Việt kiều.
Thật ra, trong việc bòn rút, ăn chặn tiền đầu tư, VC nhắm vào đám Tư Bản nước ngoài là chính, còn tiền bạc của "tư bản Việt kiều" chúng chỉ coi là thứ "tép riu", không đáng kể.
Vừa qua Thương ước Mỹ-Việt Cộng đã được ký kết, nhưng những gì xảy ra trong quá khứ cho phép tiên đoán tương lai. Người ta có thể dự trù sự việc sẽ diễn ra như sau:
1. Đối với tư bản Mỹ vào làm ăn, nhất là những thứ "gộc" như Nike, Coca Cola..., tiền bạc sẽ được chuyển khỏi Việt Nam dễ dàng hơn, VC không dám ăn chặn như trước. Lợi nhuận sẽ tăng thêm vì thuế nhập vào Mỹ giảm xuống đối với hàng sản xuất từ Việt Nam. Còn phía VC, đang xính vính kiệt quệ vì Tư bản các nước rút hết mấy năm gần đây, nay với Thương ước, chúng hy vọng dụ dỗ họ trở lại. Đám đầu xỏ Mafia Đỏ và lớp người "ăn theo"sống bám quanh, lại có dịp chấm mút.
Bộ máy kìm kẹp Công An, mà nay phải nuôi dưỡng bằng đôla chứ không thể "cho ăn" lý thuyết xuông, lại được hà hơi tiếp sức để giữ vững chế độ. Rút cục đại bộ phận dân đen, thấp cổ bé miệng, vẫn bị bóc lột, sống lê lết bên lề các đô thị và miền quê như hiện nay.
Đây là bằng chứng sau hơn 10 năm "đổi mới" ,với cơ man tiền bạc của Tư Bản ngoại quốc đổ vào, đa số nhân dân vẫn nghèo mạt rệp, tiền bạc chỉ rơi vào túi Tư bản Đỏ. Bởi vì dưới chế độ VC, không hề có vấn đề kinh doanh lành mạnh theo đúng nghĩa, hầu cải thiện xã hội. Tất cả chỉ là nền "kinh tế" của sự mánh mung móc ngoặc, chộp giựt ăn cắp, được nâng cấp lên hàng quốc sách.
Ngoài ra, mặc dầu lần này Thương Ước được ký kết, nhưng như thường lệ, khi áp dụng điều khoản nào bất lợi, đe dọa sự toàn trị của chúng là VC tìm cách xoay xở, trì trệ, ù lì. Kinh nghiệm trong quá khứ cho thấy VC không tôn trọng bất cứ thỏa ước nào, nhất là bây giờ chúng càng rảnh tay khi không có đạo luật Nhân Quyền kèm theo Thương ước.
2. Đối với Việt kiều đem tiền về "đầu tư", VC sẽ chẳng thèm đếm xỉa đến quốc tịch Mỹ, vẫn coi là người Việt Nam. Vì chỉ là "Mỹ giấy" chứ không phải Mỹ thiệt, sẽ không được Thương ước và Chính phủ Mỹ tận tình bảo vệ, VC sẽ giở trò biến hóa luật pháp, muốn "bỏ tù" lúc nào cũng được. Thành thử nếu Việt kiều về làm ăn "cò con, hốt bạc cắc" rồi chạy, thì may ra có thể thoát, ôm được chút tiền còm bỏ túi. Còn muốn làm ăn lâu dài, đại qui mô, thì sẽ được VC "vỗ béo" cho tới một ngày nào đó, chúng cảm thấy "con mòng" đã khá nặng ký, là chúng đem ra "làm thịt". Sự việc xảy ra cho các "đại thương gia" Hoàng Vi Đắc, Nguyễn Trung Trực, Trịnh Vĩnh Bình...kể trên là những kinh nghiệm.
Thực ra bài bản của CSVN không thay đổi từ 1945. Chúng chỉ biến dạng với thời gian. Thời 45-46, Hồ Chí Minh phát động "tuần lễ vàng" để trấn lột. Trong chiến tranh, CS "cải cách ruộng đất" để cướp không tài sản của dân quê. Về tiếp thu Hà Nội 1954, CS cải tạo các thương gia. Chiếm được Saigon năm 75, chúng"đánh Tư sản"...
Ngày nay Việt Nam hết Tư sản thì CS dụ Việt kiều về, để vỗ béo dần dần thành Tư sản...rồi...làm thịt ...vân vân và vân vân!






NGOẠI QUỐC KINH DOANH VỚI CỘNG SẢN
ĐÓNG THUẾ 37 TRIỆU MỸ KIM / 1 NĂM...!


MỘT NHÀ ĐẦU TƯ ĐÀI-LOAN PHẢI TỰ TỬ
http://thestar.com.my/news/story.asp?file=/2004/9/25/latest/19049Prominent&sec=latest
Prominent Taiwanese developer in Vietnam commits suicide TAIPEI, Taiwan (AP) - A prominent Taiwanese developer with major investments in Vietnam has committed suicide in downtown Taipei, police confirmed Saturday. Lawrence Ting, chairman of CX Technology and head of Central Trading and Development Corp., apparently jumped from the 15th floor of an office building in Taipei on Thursday, after visiting a lawyer's office there, police said. The China Times newspaper reported that shortly after Ting's death, his family held a news conference in Taipei accusing Chen Ching-chih, a major shareholder in CT&D and chairman of Wan Hai Shipping Lines, of having waged a slanderous campaign against Ting. Chen had filed a lawsuit accusing Ting of embezzling hundreds of millions of New Taiwan dollars (millions of U.S. dollars) from the company since 1994, the Taipei Times reported. CT&D officials in Taiwan and Vietnam have declined to comment. Ting's company, one of the largest foreign investors in Vietnam, was the majority owner in Phu My Hung Corp., a Taiwan-Vietnam joint venture that has invested some US$700 million (euro 570 million) in developing the massive Saigon South commercial and residential area, just south of Ho Chi Minh City. Phu My Hung had been involved in a major dispute with the Vietnamese government over its corporate income tax rate, Vietnamese media have reported. Vietnam's Ministry of Planning and Investment had demanded the company pay a 25 percent corporate tax, which it said was the revised level for all real estate development business, while Phu My Hung argued that it should pay only the 10 percent tax specified in its initial investment license issued in 1993. The ministry, which set the new rate last October, has said that the original rate was only applicable to infrastructure and construction activities. Phu My Hung entered the housing and real estate business in 1998. Ting had formally pleaded with the country's leadership to maintain the 10 percent rate but Prime Minister Phan Van Khai rejected the plea. Last week, the company said it had paid some US$37.3 million (euro 30.4 million) in taxes from 2000-2004 to the Vietnamese government, the Saigon Times newspaper said. - AP Latest from AP-Wire
http://www.tinmoi.vn/vu-an-viet-kieu-thang-55-trieu-usd-trong-tu-duy-gioi-luat-gia-021163178.html
http://www.tinmoi.vn/sheraton-saigon-co-du-tien-tra-neu-thua-kien-55-trieu-usd-011162891.html

"Những lời hứa, những cam kết của các bậc nguyên thủ khi kêu gọi kiều bào về nước có ý nghĩa gì khi những kiều bào tâm huyết nhất trở về quê hương lại bị hành hạ, bị làm khó, bị đối xử bất công bằng những hành động phi đạo lý và bất chấp pháp luật của một số quan chức cấp dưới!"-
Ông Đoàn Minh Tuấn, một Việt kiều 74 tuổi, một nhà giáo vừa có một bức tâm thư gửi Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ GD và ĐT Phạm Vũ Luận phản ánh "những bất công mà những Việt kiều, với tư cách là những nhà đầu tư, nhà giáo tâm huyết với sự nghiệp giáo dục của đất nước đang phải gánh chịu".
Ông Đoàn Minh Tuấn, Việt kiều định cư tại Pháp, từng là bộ đội thời kỳ chống Pháp, từng giảng dạy ở một số trường đại học của Việt Nam. Năm 2007, hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ đối với việt kiều, ông về nước cùng với GS TS Hoàng Kỳ, người đã soạn những cuốn sách đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, PGS TS Nguyễn Văn Gia, GS TS Nguyễn Văn Hữu và nhiều bạn bè trong ngành giáo dục cùng nhau xây dựng trường Đại học Công nghệ Đông Á.
Theo trình bày của ông Tuấn, năm 2008, sau khi vị Chủ tịch HĐQT đầu tiên, GS VS Vũ Tuyên Hoàng qua đời, HĐQT đã bầu ông Phạm Ngọc Thăng làm chủ tịch HĐQT. Ông Tuấn tiếp tục giữ chức Phó Chủ tịch HĐQT.
Tuy nhiên, ngay sau khi được bầu làm Chủ tịch HĐQT, ông Thăng đã kéo bè cánh, gây mất đoàn kết nghiêm trọng trong nội bộ và đặc biệt là vấn đề tài chính hoàn toàn được giữ kín với những biểu hiện hết sức bất minh. Trong suốt một năm đó, ông Thăng tìm mọi cách để Quy chế tổ chức và hoạt động của trường không được thông qua, 4 đại hội cổ đông "chỉ toàn là câu chuyện cãi vã, đấu đá, thậm chí không ra nổi một văn bản, một nghị quyết nào".
Trước những biểu hiện bất minh trong chi tiêu tài chính, các cổ đông sáng lập trường đã tổ chức đại hội vào ngày 20-12-2009. Tại đại hội này, ông Phạm Ngọc Thăng đã bị các cổ đông chiếm 92,43% cổ phần của Trường dự họp bỏ phiếu miễn nhiệm. HĐQT sau đó, với 7/10 phiếu thuận cũng đã đề nghị Bộ GD và ĐT cách chức Chủ tịch HĐQT của ông Thăng. Tuy nhiên, trong một động thái hoàn toàn bất ngờ, Bộ GD và ĐT đã không chấp nhận việc miễn nhiệm vì cho rằng Đại hội cổ đông họp không hợp lệ. Trong khi ông Tuấn và HĐQT cho rằng họ đã thực hiện đúng theo Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục", ban hành kèm theo quyết định 61/2009/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ.
"Chúng tôi thiết nghĩ ông Phạm Ngọc Thăng là do HĐQT chúng tôi bầu và quyền miễn nhiệm là thuộc HĐQT của Đại học Công nghệ Đông Á, đại diện cho 92,43% cổ phần đồng ý, chứ không phải thuộc Bộ GD và ĐT. Việc Bộ cho rằng đại hội của chúng tôi không hợp lệ là cưỡng từ đoạt lý, thậm chí, là xâm phạm vào công việc không thuộc thẩm quyền, chuyên môn của quý Bộ. Những bất thường của Bộ GT và ĐT còn ở chỗ trong khi bác tính hợp pháp của Đại hội cổ đông thì họ lại không hề có ý kiến về tính hợp pháp của cuộc họp HĐQT mà theo đó, 7/10 thành viên đã bỏ phiếu miễn nhiệm chức vụ HĐQT đối với ông Phạm Ngọc Thăng. Sự việc đã được Bộ GD và ĐT đẩy đi xa hơn nữa khi hai ngày trước đại hội cổ đông của trường chúng tôi dự định tổ chức vào hôm 14-5-2010, Bộ GD và ĐT ra một quyết định kỳ cục là cấm họp. Bộ biết rằng đại hội sẽ ra nghị quyết bất lợi cho ông Thăng? Và Bộ quyết bảo vệ ông Thăng một cách bất chấp pháp luật?"- Ông Tuấn viết trong thư.
Theo ông Tuấn, sự việc quá mù ra mưa khi Bộ GD và ĐT thành lập tổ thanh tra để cắt chỉ tiêu tuyển sinh, thậm chí đe dọa trình Chính phủ giải tán ĐH Công nghệ Đông Á.
Sau khi bãi miễn chức vụ Chủ tịch HĐQT của ông Thăng, HĐQT trường ĐH Công nghệ Đông Á đã quyết định mời cơ quan thanh tra về để kiểm tra,một cách độc lập, toàn bộ các hoạt động tài chính của trường. Kết quả kiểm tra sau đó đã lộ sáng những sự thật kinh hoàng: Không có quy định chế độ chi tiêu. Không có định mức tài chính, kế hoạch tài chính. 13 tỷ đồng đã được chi tiêu hàng năm mà không có quyết toán, không tổ chức phê duyệt. 650 triệu đã được chi thêm cho Ban quản lý Dự án...
HĐQT, Ban giám hiệu và đặc biệt kiều bào Đoàn Minh Tuấn đã sửng sốt trước những khoản chi quá bất minh, quá bí hiểm. Theo báo cáo của thanh tra có tới 1,4 tỷ đã được chi cho việc... tư vấn thành lập trường (Trong khi theo quy định, chi phí tư vấn nhiều nhất chỉ 5 triệu đồng). Bảng kê chi tiền cho thấy người nhận rất nhiều là quan chức của Bộ GT và ĐT. Vô lý đến mức chỉ một buổi họp thẩm định của Bộ GD và ĐT, ông Thăng đã quyết chi tới gần 80 triệu đồng, trong đó một Vụ trưởng được kê trong danh sách đã nhận tới 20 triệu đồng, chỉ cho một buổi họp.
Theo những chứng từ, bảng kê còn lưu lại, Chủ tịch HDQT Phạm Ngọc Thăng đã chi tới 1,8 tỷ để quà cáp, biếu xén cho quan chức của đủ các ban ngành, nhiều nhất đương nhiên vẫn là Bộ GD và ĐT.
"Những khoản quà cáp, biếu xén, phong bì này có thể gọi khác hơn chăng ngoài việc gọi chúng là những khoản hối lộ? Và phải chăng đây chính là lý do mà Bộ GD và ĐT cố gắng bảo vệ bằng được ông Thăng, dù họ bảo vệ bằng những việc làm của họ là vi phạm pháp luật?"- Ông Tuấn, thay mặt HĐQT viết trong thư gửi Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ GD và ĐT.
"Phát biểu với kiều bào đêm 23 tháng chạp Kỷ Sửu vừa rồi, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định Đảng, Nhà nước, Chính phủ trân trọng mọi sự đóng góp của kiều bào, coi đồng bào ta ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Chính ngài Thủ tướng, trong buổi gặp gỡ kiều bào tại Texas năm 2008 cũng đã cam kết trách nhiệm với kiều bào.
Nhưng những lời hứa, những cam kết của các bậc nguyên thủ có ý nghĩa gì khi những kiều bào tâm huyết nhất trở về quê hương lại bị hành hạ, bị làm khó, bị đối xử bất công bằng những hành động phi đạo lý và bất chấp pháp luật của một số quan chức cấp dưới?!"

PS: Thư ông Tuấn gửi Bộ trưởng Phạm Vũ Luận còn có đoạn: Chúng tôi được biết ngài là cháu đời thứ tư của Tam nguyên Thám hoa Vũ Phạm Hàm- vị Tam khôi cuối cùng có tên trong văn bia Văn Miếu, được chép trong sách Bách khoa toàn thư. Ngay sau khi nhậm chức Bộ trưởng, ngài đã về quê hương Đôn Thư kính cáo với tổ tiên dòng họ Vũ Phạm- Phạm Vũ. Vì vậy, chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự chí công vô tư của ngài cũng như kính ngưỡng cụ Vũ Phạm Hàm với những giai thoại còn truyền trong sử sách. Tuanddk bình rằng: Đúng là một cụ "Việt kiều hồi hộp", ngây thơ đến tội nghiệp
Bài tới sẽ là những nhân vật có tên trong danh sách nhận tiền với những cá mập còn cao cấp hơn cả Bộ trưởng

Địa chỉ ông Đoàn Minh Tuấn dành cho những đồng nghiệp quan tâm đến vụ việc:
Tel: 0902218446
Email: doanminhtuan1937@yahoo.com
http://vn.360plus.yahoo.com/tuanddk











GIÃ TỪ VIỆT NAM
Ed Oshiro, MPH
(Master of Public Health)

Bài viết “Goodbye Vietnam” của ông Ed Oshiro, một người Mỹ gốc Nhật, đăng trên tạp chí của Hiệp Hội Y Khoa thuộc hạt King (King county Medical Society) tại Seattle,Hoa kỳ, tháng 11 năm 1996, tố cáo chính quyền VN tham nhũng, tống tiền mà nạn nhân là ông - một người làm việc thiện nguyện tại đó. Ed Oshiro nguyên là phụ tá giám đốc chương trình Giáo dục Y tế của Group Health Corporatives đã tình nguyện qua Việt Nam làm quản lý cho một bệnh xá, một cô nhị viện với 125 trẻ em do tổ chức “Đông Tây hội ngộ” (East Meets West Organization) bảo trợ tại 4 làng nhỏ vùng ngoại ô thành phố Đà Nẵng. 


(Những ai có ý định về Việt Nam làm ăn hay làm việc thiện nguyện, xin hãy đọc kỹ bài này).

Ba mươi phút sau khi chuyến bay của hãng Hàng Không Việt Nam chở chúng tôi rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhất, chúng tôi nhìn xuống những đồng bằng màu đỏ trơ trụi của xứ Cambodia, tôi và vợ tôi bỗng dưng có một cảm giác kỳ lạ của sự thoải mái và tự do. Hú vía, chúng tôi thực sự đã thoát khỏi những sự sách nhiễu, hăm dọa và tham nhũng thường nhật của các giới chức Việt Nam, và cái gánh nặng đè trên vai trong ba tháng qua chợt trút mất.

Mọi chuyện như bắt đầu từ mùa thu năm ngoái, khi tôi nhận làm quản lý hải ngoại vụ cho Cơ Sở Đông Gặp Tây (East Meets West Foundation) hiện đang trông coi một bệnh xá toàn khoa cho “kẻ nghèo nhất trong đám nghèo” và một cô nhi viện với 125 trẻ em ở ngoại ô thành phố Đà Nẳng, Việt Nam. Tôi đã quyết định chụp lấy cơ hội hưu trí sớm với đầy đủ cấp dưỡng do Group Health đề nghị và về hưu vào đầu tháng Giêng với ý định đi phục vụ tình nguyện khoảng một đến hai năm tại Việt Nam, bắt đầu vào giữa tháng giêng.



Công tác của tôi là giúp bệnh xá hoạt động được hữu hiệu hơn và hướng dẫn những chương trình về giáo dục y tế công cộng cho bốn làng hẻo lánh. Vợ tôi thì được giao việc ở cô nhi viện như là giáo viên mỹ thuật và dạy Anh ngữ cho các nhân viên.

Một điều báo trước cho những việc sẽ gặp ở trong nước Việt Nam thực ra đã bắt đầu khi chúng tôi bay xuống San Francisco để nhận giấy chiếu khán đi Việt Nam. Khi đến San Francisco thì chúng tôi được báo rằng viên chức Bộ Ngoại Giao (Việt cộng) muốn chúng tôi phải thuê căn phòng của y ở Đà Nẳng với giá 700 đô la mỗi tháng, với sáu tháng tiền nhà đưa trước. Chúng tôi phản đối và y không chịu cấp giấy nhập cảnh nữa, chúng tôi đành phải quay về lại Seattle để chờ Cơ sở tiếp tục thương lượng. Cuối cùng đến tháng Hai, sau khi đồng ý với vụ sắp xếp, trả cho y 4200 đô la, và dấu nhập cảnh cho ba tháng thay vì một năm, chúng tôi bay đi Việt Nam. Khi đến nơi thì căn phòng, hỡi ôi! còn đang sửa chữa và chúng tôi đành ở khách sạn với giá 15 đô la một ngày.

Vừa vào đến Việt Nam thì tất cả đĩa điện toán của chúng tôi đều bị tịch thâu ngay, và mãi đến ba tuần mới được trả sau khi đóng 40 đô la gọi là “lệ phí bảo quản” và có cả khối bản phụ được sao chép (để bán về sau).

Ngày đầu làm việc trong văn phòng, tôi nhắc máy điện thoại để gọi con gái tôi ở Seattle và đã có thể nghe rõ tiếng nhạc quân hành văng vẳng trong máy suốt cuộc điện đàm. Tôi nhắc lại chuyện đó với nhân viên người Việt thì được họ cho biết là công an và quân đội luôn theo dõi nghe trộm mọi cuộc điện đàm.

Chúng tôi được khuyến cáo là ngay cả thư từ cũng được mở ra đọc ngang xương, cho nên phải cẩn thận khi viết. Có một lần công an gọi tôi phải đem tờ báo cáo tài chính cuối tháng cho họ xem để họ quyết định cho gởi hay không.

Vài ngày sau khi tôi bắt đầu làm việc, thì cô kế toán viên bay đi Florida để làm đám cưới với anh bác sĩ Mỹ mà cô đã quen trong thời gian anh ta phục vụ tình nguyện cho bệnh xá. Khi chúng tôi rao tuyển người thay thế thì viên Bộ Trưởng chuyển đến một danh sách ứng viên mà y muốn chúng tôi thâu dụng. Chúng tôi bác ngay vì họ không biết tí gì về kế toán và chẳng có chút năng khiếu gì về Anh ngữ. Chúng tôi tuyển được một cô có bằng kế toán và nói giỏi tiếng Anh, nhưng viên Bộ trưởng và Sở Công An lại trì hoản việc chuẩn y thâu dụng, cho mãi đến khi tôi nghĩ rằng, có chút tiền đút lót hoặc cô ta chịu chia một phần lương của cô.

Chúng tôi được biết rằng tất cả nhân viên người Việt đều buộc phải đóng một phần tiền lương cho công an, các viên chức nhà nước, đảng viên, v.v... Đã mấy lần công an đến văn phòng chúng tôi hạch hỏi vì sao chúng tôi không dùng người của họ.

Bất ngờ có một bác sĩ người Việt lại nộp đơn xin làm kế toán bởi vì anh đã thất nghiệp đến hơn 5 năm nay. Quả có hàng trăm bác sĩ thất nghiệp mặc dù họ thuộc hạng lao động có lương thấp nhất ở Việt Nam... 30 đô la một tháng. Tôi chẳng thể nào hiểu được vì sao lại có quá nhiều bác sĩ thất nghiệp tại Việt Nam. Tôi được nghe kể rằng họ buộc phải ghi danh quỹ 1,500 đô la để được thực tập và lấy kinh nghiệm ở bệnh viện sau khi học xong. Không có kinh nghiệm ở bệnh viện là thất nghiệp. Tôi lại được biết có một sự kỳ thị nặng nề đối với dân trong Nam, đặc biệt là những người đã từng phục vụ cho chế độ cũ. Hầu hết những bác sĩ thất nghiệp mà chúng tôi đã gặp là dân miền Nam.

Trong phần họp định hướng tại Hoa Kỳ, chúng tôi được báo cho biết rằng các bác sĩ tại bệnh xá làng Hòa Bình rất lười và ù lì, vì họ chỉ biết có một điều là viết toa cho thuốc bổ sinh tố. Sau khi làm việc với họ vài ngày, tôi nhận thấy họ rất thông minh, rất ham học để hành nghề tốt và sẵn sàng đón nhận những sự giúp đỡ để trở thành thầy thuốc giỏi. Điều đáng tiếc là sự đào tạo của họ tệ quá, cho nên họ chỉ giỏi viết toa sinh tố cho mọi bệnh trạng.

Mỗi ngày trong một tuần, các bác sĩ đi khám bệnh ở một trong những làng lân cận. Tôi đi theo họ vài lần và nhận thấy rằng sinh tố được cấp cho mọi chứng: sốt rét, mù lòa, sốt nóng, bệnh ký sinh trùng, tiểu ra máu, tiêu chảy, v.v... Họ đâu có thể làm gì khác hơn được? Họ chẳng có món thuốc nào ngoài vài lọ Ampicilin. Mấy bác sĩ bảo rằng ít ra cũng nên cho bệnh nhân món gì để đem về nhà, và họ cấp sinh tố. À ra thế! Trụ sinh thì ai cũng có thể mua được chẳng cần toa cho nên nhà nào cũng có vài lọ trữ sẵn. Ngay cả thông dịch viên của tôi cũng dùng trụ sinh cho nhức đầu, cảm, tiêu chảy, đau lưng, hoặc khi cô ta cảm thấy không được khỏe.

Một bác sĩ Sản Phụ Khoa từ San Diego đã làm việc vài ngày tại bệnh xá và bà chỉ cho các bác sĩ cách sử dụng mỏ vịt đế khám âm đạo. Năm sau, ông ta quay lại và bất bình vì các bác sĩ không dùng mỏ vịt. Ông ta báo cáo với Ban Quan Trị Cơ Sở Đông Gặp Tây ở San Francisco rằng các bác sĩ ở bệnh xá ù lì và lười biếng. Tôi báo cáo về Ban Quản Trị chất vấn sự giám định của ông ta. Các bác sĩ tại bệnh xá không thể nào học khám và chữa bệnh phụ khoa trong vài ngày được, và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm chỉ làm được dăm ba xét nghiệm đơn giản mà thôi. Cho dù họ có khám ra được điều gì đi nữa thì cũng chẳng có thuốc men và dụng cụ để điều trị. Tại sao phải đi học những chuyện mà dù có biết mình cũng đành bó tay? Tôi cảm thấy rằng bác sĩ Mỹ tình nguyện làm việc tại bệnh xá làng Hòa Bình thiếu nhạy bén và làm hại nhiều hơn là giúp đỡ.

Sau khi ổn định công việc, tôi liền gặp viên Bộ trưởng Y Tế (Việt Cộng) để đề nghị xúc tiến dự án hướng dẫn y tế công cộng cho bốn làng, và ông ta cũng thích thú về ý kiến đó. Ông ta nhận bản dự án đó và bảo rằng ông ta sẽ thảo luận với Ủy Ban Nhân Dân rồi cho tôi biết sau, hai tuần sau, ông ta gửi cho chúng tôi một lá thư nói rằng bản dự án đó đã được chấp thuận và Bộ sẽ thi hành, nhưng họ lại muốn tôi tài trợ 25 ngàn đô la. Tôi trả lời rằng tôi không có tiền mà chỉ có sự hiểu biết, thời giờ và lòng nhiệt thành muốn huấn luyện và làm việc với các nhân viên y tế mà thôi, nhưng họ chẳng tha thiết mấy đến sự tham gia của tôi – mà chỉ nghĩ đến tiền của tôi thôi. Tôi không được mời trở lại Bộ Y Tế nữa.



Khi tôi đi thăm ngôi làng đầu tiên để lượng định về y tế thì tôi được gặp Chủ Tịch Nhân Dân xã và y dẫn tôi đi thăm những gia đình nghèo nhất. Tại mỗi nhà y đòi tôi giúp cho những món mà gia đình đó cần như một mái nhà mới, tiền mua gạo, áo quần, xe lăn, v.v... Đến khi tôi nhắc đi nhắc lại rằng tôi đến đây không phải để cho tiền, y liền bảo thông dịch viên dẫn tôi ra khỏi làng ngay.

Ở một làng khác, các viên chức đòi tôi phải cấp một ngân khoản để xây một ngôi chợ mới, và khi họ biết tôi không thể làm được, họ bắt giữ tôi lại tại chỗ rồi ra lệnh cấm tôi rời khỏi trụ sở ủy ban. Đêm đó tôi bị buộc phải ngủ trên sàn gỗ bẩn thỉu với một mảnh mền rách, và một tên an ninh nằm ngủ bên cạnh canh phòng tôi trốn. Cho thêm phần khốn khổ, tên an ninh này lại bị cụt tay vì mìn, y đặt cánh tay cụt lên bụng tôi suốt đêm mà ngủ. Còn tôi thì làm sao mà ngủ được, nằm nghĩ ngợi lung tung, mấy ai tin được rằng tôi lại ngủ trên sàn nhà một văn phòng đảng Cộng Sản, cạnh một tên công an Cộng Sản, mà cánh tay cụt của hắn lại đặt trên bụng tôi! Đó là một trong những đêm kinh dị và hãi hùng nhất trong đời. Tôi cứ ngỡ mình bị ác mộng.

Vì tôi trú trong khách sạn nên phải đi ăn tiệm. Chỉ có một nơi mà chúng tôi và hầu hết các du khách đến ăn mà không sợ bệnh là nhà hàng mang tên Christies. Mỗi đêm chúng tôi gặp nhóm Thủy Quân Lục Chiến và quân nhân Mỹ đến Việt Nam tìm kiếm lính mất tích trong cuộc chiến (MIA’s). Họ bảo ràng mỗi làng đều có mánh khóe làm ăn trong vụ này. Chức sắc ở làng có thể báo cáo là đã chôn hai hay ba xác lính Mỹ ngoài ruộng. Thế là Hoa Kỳ phải mất khoảng 10 ngàn đô la cho việc đào xới và mướn phu phen địa phương.

Các giới chức Mỹ mà tôi chuyện trò bảo rằng từ năm 1991, họ chẳng tìm ra cái gì ráo và cũng chẳng mong mỏi tìm thêm cái gì khác. Họ được yêu cầu trú tại khách sạn của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam với giá 75 đô la một đêm và phải thuê phi cơ trực thăng chở họ đến các làng, mà giá của một giờ bay trực thăng là 750 đô la. Có khoảng 30 quân nhân Hoa Kỳ tìm kiếm MIAs tại Đà Nẳng và ở mỗi thành phố lớn đều có một nhóm như vậy. Dĩ nhiên là Hoa Kỳ tốn hàng triệu đô la vào túi các viên chức người Việt!

Sau hai tháng rõ ràng là chẳng ai cần đến chúng tôi tại Việt Nam. Cô nhi viện thì đã được Chính Phủ Hoa Kỳ tài trợ dồi dào và nhân viên Việt Nam thì làm việc xuất sắc. Trẻ em học ở trường nhà nước, được dạy nghề mộc, may vá, điện toán, v.v... và một bác sĩ toàn thời chăm sóc sức khỏe cho chúng. Chúng có cả sân bóng rổ, bóng bàn, máy truyền hình, mày chiếu hình, xe đạp, máy điện toán, một nông trại trồng rau, chúng nuôi gà và lợn để sinh lợi. Ai cũng biết rằng chúng sống khá hơn đại đa số trẻ con khác ở Việt Nam! Tôi đã tìm cách tăng lương cho tất cả các bác sĩ và nhân viên (Việt Nam) tại bệnh xá từ 30 đô la đến 50 đô la mỗi tháng. Nhà cầm quyền lại đòi rằng ai cũng được trả đồng hạng dù là bác sĩ hay y công.

Tôi cũng đã giúp vào một chương trình phát triển dài hạn giáo dục liên tục cho các bác sĩ. Một bác sĩ tim mạch ở Nhật chịu đỡ đầu hàng năm, trong nhiều năm về sau, cho một bác sĩ của bệnh xá luân phiên qua tu học tại bệnh viện Okasa khoảng sáu tháng. Người đầu tiên đi Osaka đã rời hồi tháng Sáu. Tôi cũng đã bắt liên lạc với bệnh viện Huế xin các bác sĩ của bệnh viện thực tập và chúng tôi chịu trả tiền phí tổn huấn luyện. Tôi đã đệ trình dự án này với Ban Quản Trị Cơ Sở Đông Gặp Tây vào ngày công tác cuối cùng của tôi ở Việt Nam. Hy vọng rằng Ban Quản Trị sẽ biểu quyết tán đồng chương trình này. Tôi cảm thấy quá rẻ để huấn luyện một bác sĩ với giá 1500 đô la.

Vài tuần sau khi đến Đà Nẳng, viên chức Bộ Ngoại Giao đòi thêm tiền để dứt điểm việc tu bổ căn phòng và mua đồ bày biện. Nhưng chúng tôi được biết rằng một bác sĩ Việt Nam kiếm được 30 đô la một tháng và đã trả, có lẽ từ 10 đến 15 đô la tiền thuê căn phòng như thế nên chúng tôi đã lịch sự phất lờ đòi hỏi thêm tiền của y. Y bèn trở mặt chèn ép, đòi chúng tôi phải báo cáo trước chi tiết lộ trình mỗi hai tuần, không cứu xét yêu cầu gia hạn chiếu khán và làm khó dễ các nhân viên người Việt của bệnh xá.

Ba tháng sau khi đến Việt Nam viên chức Bộ Ngoại Giao bảo rằng chúng tôi có thể vào ở được rồi, và chúng tôi chỉ trú – có mỗi một đêm. Căn phòng chỉ được tu sửa nửa chừng với dây điện còn lòng thòng từ trần nhà, tường được sơn một phần, ống nước chưa được nối vào, không có bàn ghế và gián thì ôi thôi, bò lổn ngổn khắp nơi. Chỉ trong mấy phút mà tôi xài hết một lọ xịt côn trùng và sàn nhà đầy la liệt cả gián dài khoảng 2 đốt tay đang nằm ngửa ngo ngoe.

Chúng tôi dọn trở lại khách sạn sau đúng một đêm. Viên chức Bộ Ngoại Giao rất bực dọc và gay gắt bảo chúng tôi nên rời khỏi nước nếu không hài lòng. Lần đầu tiên chúng tôi cảm thấy sợ hãi, chúng tôi biết rằng y có thể bỏ tù chúng tôi hoặc dàn cảnh một tai nạn mà chẳng ai có thể làm gì được.

Biết rõ rằng chẳng ai muốn và cần đến chúng tôi tại Việt Nam, sự đóng góp của chúng tôi cũng nhỏ nhoi, và có một sự đe dọa đến an ninh của chúng tôi, chúng tôi quyết định rời khỏi Việt Nam. Chúng tôi cũng bị dằn vặt bởi quyết định này vì chúng tôi đã đến và mến yêu trẻ mồ côi, những người làm việc chung và cái bệnh xá làng Hòa Bình. Chúng tôi mang theo một tình cảm rất nồng nàn đối với dân Việt, đối với đất nước tuyệt đẹp này, và mong một ngày nào đó sẽ trở lại để hoàn tất những công tác đã phát khởi.

Một ngày kia, cái thế hệ lãnh đạo hiện nay sẽ trao quyền lại và Việt Nam sẽ vươn mình như con bướm sặc sỡ của vùng Đông Nam Á.


Ed Oshiro hiện về hưu và ngụ tại Mercer Island (thành phố Seattle, tiểu bang Washington) nguyên là Phụ Tá Giám Đốc Chương Trình Giáo Dục Y Tế của Group Health Cooperatives.



GOOD-BYE VIETNAM
by Ed Oshiro, MPH (Master of Public Health)

Thirty minutes after our Vietnam Airline flight departed from Tan Son Nhut airport in Ho Chi Minh City, we looked down upon the denuded red plains and my wife and I instantaneously felt an incredible sense of relief and freedom. We were finally free from the daily harassment, intimidation and greed of the Vietnamese officials and we could actually feel the weight of the last three months lift off our shoulders.

It all began last fall when I was accepted as the overseas manager for the East Meets West Foundation which operated primary care clinic for the “poorest of the poor” and an orphanage for 125 children on the outkirts of Da Nang, Vietnam. I had decided to take advantage of the early retirement package offered by Group Health and retired in January with the intention of volunteering in Vietnam for a year or two, beginning in mid-January. My mission was to help the clinic become more efficient and effective and to conduct=2 0pilot public health education programs in four remote villages. My wife was assigned to work with the orphanage as an art and recreation instructor, and to teach English to the staff.

A preview of what we were to experience in country actually began when we flew to San Francisco to pick up our visa on our way to Vietnam. Upon our arrival in San Francisco, we were advised that the Foreign Minister, who issues the visas, wanted us to rent his appartment in Da Nang for $700 a month, with a six month advance payment. We objected, he refused to issue the visas, so we return to Seattle while the Foundation continued the negotiations. Finally, in February, we agreed to the arrangement, paid him $4200, and with a 3 month instead of a 12-month visa, flew to Vietnam. When we arrived, the apartment, of course, still being renovated so we were compelled to stay in a hotel at $45 a day. Upon entering Vietnam, all of our computer discs were cofiscated and only after paying a $40 “handling fee” and copies had been made (for later resale) were they returned to us three weeks later.

On our first day in the office, I picked up the telephone to call my daughter in Seattle and noticed that martial music could be heard in the background during our conversation. I later mentioned that to the Vietnamese staff and they stated the police and military were listening in on all of our telephone calls. We were also warned that our letters were opened and read by the government, so we h ad to be careful what we wrote. Once, I was required to take a month-end financial report to the police and they decided whether it should be sent off or not.

A few days after we began working in the office, the Vietnamese accountant left for Florida to marry an American doctor she had met when he came to Da Nang to volunteer at the clinic. When we announced the position, the minister sent us candidates who had no accounting training nor English language skills and hired a certified accountant who spoke fluent English. The Minister and the Security Police delayed approval of the new employee, untill, we suspect, some money changed hands or she agreed to kick back a percentage of her salary. We were informed that all the Vietnamese employees were required to pay the police, government offcials, party member, ect, a portion of their salary. The Security Police came to our office to demand, several times, why we refused to hire their candidates.

Incidentally, a Vietnamese physician applied for the accounting job because he had been unemployed for over five years. Apparently, there were hundreds of doctors that were unemployed in spite of the fact that they are some of the lowest paid workers in Vietnam… $30 a month. I never learned why there were so many unemployed doctors. I was told that they had to pay upwards of $1500 to get practical training and experience in a hospital after they completed their training. Without the training, they were unemployable. I also became aware20that there was tremendous discrimination against the South Vietnamese, especially these whose family members supported the defeated government. Most of the unemployed doctors we met were South Vietnamese.

During my orientation in the States, I was warned that the doctors at the Peace Village Clinic were lazy and unmotivated, and only knew how to prescribe vitamins. After spending a few days with the doctors, I found them to be very intelligent, very willing to learn to practice good medicine and were eager to receive any assistance that would enable them to become good practitioners. Unfortunately, their medical training was so poor and inadequate that they were only qualified to prescribe vitamins for every affliction. One day a week, the doctors visited one of the surrounding villages and provided care to the people. I accompanied them on several visits and noted that vitamins were precribed for every ailment, malaria, blindness, fevers, parasites, blood in the urine, diarrhea, ect. What else could they do? They didn’t have any other drugs except a few bottles of Ampicillin. The doctors claim that they had to give the patients something to take home so they prescribed vitamins. Made sense to me. Antibiotics may be purchased over the counter so every Vietnamese already had several bottles at home. My translater took antibiotics for headaches, colds, diarrhea, backache, and when she just was not feeling well.

An OB/GYN doctor from San Diego spent a few days at the clinic and showed the doctors how to use a vaginal speculum. A year later, he returned and was very upset that the doctors were not using the speculum and complained to the East Meets West Foundation Board in San Francisco that the doctors were unmotivated and lazy. My report to the Board questioned his assessment. The doctors could not be trained in diagnose and treat gynecological diseases in a few days and the lab tech was only able to do very simple tests. Even if they did, find something, there were no drugs or equipment to treat the problem. Why look for something if you can’t do anything about it? I felt that some of the American doctors who volunteered at the Peace Village Clinic were very insensitive and did more harm than good.

As soon as I had settled in, I met with the Minister of Health with a proposal to conduct a pilot public health project in four villages and he seemed to be very enthusiastic about the idea. He accepted the proposal and informed me that he would discuss it with the People’s Commitee and get back to me. Two weeks later, he sent me a letter stating that the project was approved and that the Ministry would implement it, but they wanted me to provide them with $20,000. I stated that I did not have the money, only the knowledge, time and willingness to do the training and work with the health workers, but they were not interested in my participation – only my money. I was not invited back to the Ministry.

When I visited my first village to do a health assessment. I was met by the Director of the People’s Committee who took me around to the homes of the poorest families. At each farm house, he requested that I pay for something that the family needed, for example: a new roof, a new well, a new house, money for rice, clothes, wheel chair, etc. When I stated over and over that I was not there to give them money, he finally told my translator to get me out of the village. At another village, the officials demanded that I provide them with funds to build a new school and when they realized that I would not provide the funds, I was immediately put under house arrest and ordered not to leave the grounds of the People’s Committe office. That night, I was ordered to sleep on the dirty wood floor of the office with only a tattered blanket, and one of the security police officer slept next to me to assure that I did not leave the building. To add to my misery, the officer, whose hand had been blown off by a land mine, place his stump on my stomatch all night while he slept. I, of couse, did not sleep a wink and keep thinking who would ever believe that I would be sleeping on the floor of a Communist party office, next to a Viet Cong policeman whose handless arm rested on my belly! It was one of strangest and scarrest night I have experienced. I kept wondering if I was having a nightmare.

Because we were living in a hotel, we had to eat our meals in restaurants. The only place we and most visitors c ould eat in Da Nang without getting sick was a restaurant called Christies. Every night, we met American marrines and soldiers who were in Vietnam searching for MIA’s. They stated that every village had a scam in operation. The village leaders would claim to have burried in the rice fields two or three Americans who had died during the war. It would cost the American $10,000 to dig in the fields and to hire local workers. The officers we talked to claimed that since 1991 they had found nothing and they didn’t expect to find anything. They were required to stay in Vietnam Army Hotel for $75 a night and hire the Vietnam helicopter to take them to the village. We were informed that it cost $750 an hour for the helicopter ride. There were about 30 US military personel looking for MIA’s in Da Nang and every major city had a silmilar team. It is coating the US milion of dollars and the Vietnamese are laughing all the way to the bank!

After a couple of months, it became very evident to us that we were not needed in VietNam. The orphanage was being very adequately funded by the US Government and the Vietnamese staff was excellent. The kids were attended in the government school, being provided with training in carpentry, sewing, computer, etc … and a full time physician took care of the medical needs of the children. They had a basketball court, ping-pong tables, television, videos, bicycles, computers, a vegetable farm, and they raised chickens and pigs for income. The Vietnamese cl aimed that these chidren, in fact, lived better than all other children in Vietnam.

I was able to raise the salaries of all the doctors, and the rest of clinic staff from $30 to $50 a month. The government required every employee to be paid the same amount whether he/she were a doctor or janitor. I also assisted in development of a long term continuing education program for the doctors.. A cadiologist from Japan is sponsoring each year, one doctor from the Peace Village Clinic, who will spend six months in her hospital in Osaka for next few years. The first doctor left Osaka in June. I also opened communication with the Hue hospital to accept our doctors into their resisdency program with us paying for the training. I presented this proposal to East Meets West Foundation Board on my last day in the country. Hopefully, the Boad will vote favourably on this program. I feel that it is very inexpensive to train the doctor for $1600.

Several weeks after we arrived in Da Nang, the Forein Minister demanded more money to finish renovating the apartment to purchase furniture. We were aware of this fact that a Vietnamese doctor makes $30 a month and he would pay, perhaps $10-$15 a month to rent that apartment so we politely ignore his demand for more money. He tightened the screws by requiring us to to provide him with a detailed itinerary as to where we would be every hour, two weeks in advance, by holding up our request for a visa extention and by intimidating our Viet namese office staff. Three months after we arrived, the Foreign Minister said we could move into the house and we did – for one night. It was only partially completed with electric wires dangling from the ceiling, walls partially painted, plumbing unconnected, no furniture and cockroaches crawling everywhere. In a few minutes, I used up a can of insecticide and the floor was covered with two-inch long cockroaches lying on their backs, leg flailing away. We moved back to the hotel after one night. The minister became very upset and advised us to leave the country if we were unhappy. For the first time ever, we experience real fear. We realized that he could jail us or arrange an accident and no one could do anything about it.

Realizing that we were not really wanted or needed in the country, that our contributions would be negligible, and that there was a real threat to our safety, we made the decision to leave Vietnam. We agonized over the decision because we had come to love the children in the orphanage and the people working there as well as at the Peace Village Clinic. We have very warm feelings for the Vietnamese people and the incredibly beautiful country, and we would, someday, like to return there complete the work we have begun.

One day, this generation of leaders will pass on and then Vietnamese will emerge to become to the butterfly of Southeast Asia.



Việt kiều Pháp về làm từ thiện bị công an hăm dọa.


Bà Lương thị Hồ Quì, phó hội trưởng của tổ chức từ thiện Măng non - Avenir.
Đã phải tức tốc mua vé may bay trở lại Pháp sau khi bị công an VN hăm dọa nếu ở lại sẽ «nguy hại đến an ninh» của bà.
Phần âm thanh
Tải xuống âm thanh

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/police-threatened-vns-french-07302012155616.html



http://www.tin247.com/he_lo_duong_day_lay_xac_tu_benh_vien-1-21664747.html










NGHỊ QUYẾT 36













Việt kiều Pháp về làm từ thiện bị công an hăm dọa

Lop-hoc-Tinh-Thuong_My-Xuyen_Soc-Trang_-ba-Qui-doi-non-dung-giua-305.jpg
Lớp học tình thương Mỹ Xuyên, Sóc Trăng. Bà Quì đội nón đứng giữa.
Photo by Mangnon
Tường An hỏi chuyện bà Hồ Quì để tìm hiểu lý do tại sau bà phải rời khỏi VN khi chuyến đi nhân đạo chưa hoàn thành.



Việt kiều Na Uy về nước bị chận tại Tân Sơn Nhất


Máy bay của Hãng Hàng Không Việt Nam
Máy bay của Hãng Hàng Không Việt Nam. Ảnh minh họa
RFA file

Gia Minh hỏi chuyện người trong cuộc là cô Mi Vân. Sau khi kể lại việc bị từ chối không cho nhập cảnh mà không nêu rõ lý do, 


















http://www.vietnamexodus.info/vne/modules.php?name=News&file=article&sid=3674

http://vietvungvinh.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1844:phai-lam-gi-khi-nhat-bao-nguoi-viet-nhuc-ma-vnch&catid=55:vietnam-hai-ngoai&Itemid=76

http://www.vopvn.com/home/vi/news/Su-Kien-Cong-Dong/NHAT-BAO-NGUOI-VIET-NHUC-MA-VNCH-LA-BE-LU-VIET-GIAN-TAY-SAI-CUA-MY-850/









Vân Sơn - Đức Huy - Tuấn Ngọc 


KHÁNH LY 
"Live concert Khánh Ly" được tổ chức đêm duy nhất vào 9/5 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/nhac/lang-nhac/khanh-ly-ve-ha-noi-bieu-dien-2975546.html












A.Nội dung của Nghị Quyết 36
B.Tác dụng của Nghị Quyết 36
A. Nội dung của NQ 36
Một điểm khá “lý thú” cần nêu ở đây trước khi bàn về nội dung của NQ. Đó là chiêu bài “đại đoàn kết dân tộc” được nhắc đi nhắc lại ít nhất là 5 lần trong bản NQ. Chiêu bài này Hồ Chí Minh đã từng sử dụng vào năm 1946 khi thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Gia và trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. “Đại đoàn kết dân tộc” được thực thi thế nào mà Cố vấn Tối cao Vĩnh Thụy, Phó chủ tịch Nguyễn Hải Thần, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam phải tìm đường lưu vong? Người viết đã đề cập chiêu bài này trong phần II (Hiện tượng và Chiêu bài trong chế độ CSVN).
Nghị Quyết 36 gồm có 4 phần:
1.Tình hình và công tác đối với người VN ở nước ngoài thời gian qua
Trong đoạn đầu của phần 1, NQ “kiểm kê tài sản” của Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại:”Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có tiềm lực kinh tế nhất định, có mối quan hệ với nhiều doanh nghịêp, tổ chức kinh tế nước ngoài và quốc tế, có khả năng tìm kiếm đối tác và làm cầu nối với các doanh nghiệp, tổ chức trong nước. Nhiều trí thức có trình độ học vấn và chuyên môn cao, một số người giữ vị trí quan trọng trong các cơ quan, cơ sở nghiên cứu ,đào tạo, các công ty và tổ chức quốc tế, có khả năng tạo dựng quan hệ với các cơ sở kinh tế, khoa học ở nước sở tại”.
Thử hỏi những thành phần của “cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài” không vượt thoát khỏi sự kềm kẹp của CSVN để sống tại các nước có tự do, có dân chủ, có nhân quyền thì cộng đồng đó có được những điều tốt đẹp như NQ 36 đã muối mặt mô tả hay không ?
Đoạn giữa của phần 1 chứa nhiều “hầm chông”, được ngụy trang bằng “hoa thơm cỏ lạ”, chứ không phải bằng “rác rưởi hôi tanh”. Xin quan sát các “hoa thơm có lạ” dưới đây, nhưng phải đề cao cảnh giác vì dưới lớp hoa lá đó là những ”hầm chông tẩm thuốc độc”:
-Mặc dù sống xa tổ quốc, đồng bào luôn nuôi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống văn hóa và hướng về cội nguồn, dòng tộc, gắn bó với gia đình, quê hương.”
Vâng, người Việt tỵ nạn CS sống xa tổ quốc. Tổ quốc nói đây là Tổ Quốc Việt Nam, chứ không phải cái “Tổ quốc xã nghĩa” của VC!. Tinh thần yêu nước của người Việt tỵ nạn CS nằm trong ý niệm “yêu nước là thương dân” chứ không phải là “yêu nước là yêu XHCN”. Người Việt tỵ nạn CS giữ gìn truyền thống văn hóa, văn hóa nói đây là văn hóa với “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” chứ không phải thứ văn hóa vô thần đầy hận thù và gian dối!
-“Đồng bào bà con hoan nghênh công cuộc đổi mới và chính sách đại đoàn kết dân tộc của đảng và nhà nước”
“Công cuộc đổi mới” do CSVN thực hiện chỉ đem lại kết quả là sự cách biệt giữa người nghèo và kẻ giàu ngày càng sâu đậm hơn. Trên dưới 30 năm thống trị miền Nam, CSVN vẫn còn tìm biện pháp “xóa đói giảm nghèo”. Càng đổi mới, số vụ tham nhũng càng tăng, các ổ mãi dâm càng nhiều, các nghiệp vụ với chữ “ôm” theo sau càng bành trướng, ma túy càng dễ mua…Thử hỏi “đổi mới” theo kiểu đó, ai là người yêu nước lại chẳng động lòng, ai là người có liêm sỉ lại dám “hoan nghênh”!
Ai là người có óc thông minh dưới trung bình chút đỉnh cũng không thể hoan nghênh “chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc” theo kiểu của VC. Chính sách này đã được nói nhiều ở phần trên của bài này.
Cũng ở đoạn giữa của phần 1 này, NQ đã nêu lên những điều không đúng sự thật:
-“Một bộ phận đồng bào do chưa có dịp về thăm đất nước để tận mắt thấy được những thành tựu của công cuộc đổi mới hoặc do thành kiến, mặc cảm, nên chưa hiểu đúng về tình hình đất nước”.
Phần trên,người viết đã bàn nhiều về “công cuộc đổi mới”. Ở đây chỉ cần nhắc một điều: cái thời dấu diếm, che đậy, bưng bít để lừa bịp đã qua lâu rồi. Ngày nay, nhất động, nhất tĩnh xẩy ra trong nước, “bọn bán nước, liếm gót giày đế quốc Mỹ” ở hải ngoại đều biết và biết rất rõ, rất đúng. Chỉ tội cho đồng bào quốc nội, giờ này vẫn còn bị bưng bít và lừa bịp.
-Một số ít người đi ngược lại lợi ích của dân tộc, ra sức chống phá đất nước, phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại và VN”
CSVN có cái tật, đến chết cũng không bỏ được. Đó là tự đồng hóa mình với đất nước và dân tộc.. Không phải “một ít người” mà đại khối đồng bào ở hải ngoại đều chống đảng CSVN chứ không hề “đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc”. Đại khối đó không “ra sức chống phá đất nước” mà nỗ lực tìm phương cách tiêu diệt CS đang tàn phá đất nước. Đại khối đó không “phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại với VN” mà vận động với các đại diện dân cử của các nước sở tại để họ thấy sự tàn bạo, phản dân chủ, chà đạp nhân quyền của đảng CSVN để họ hợp tác với dân tộc VN trong việc khôi phục tự do, dân chủ và nhân quyền cho VN, đồng thời tạo áp lực để chính phủ của họ chấm dứt viện trợ cho chế độ phi nhân đang trấn áp dân tộc VN.
-“Nhu cầu giao lưu văn hóa giữa cộng đồng và đất nước, là rất lớn và trở nên bức thiết song chưa được đáp ứng.”
Khi VC đặt vấn đề “giao lưu văn hóa”, họ đã mặc nhiên công nhận có hai nền văn hóa: văn hóa quốc nội mà cốt lõi là chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh và văn hóa hải ngoại đặt trên chủ nghĩa Quốc gia Dân tộc. Vấn đề giao lưu văn hóa đã được VC nói tới từ lâu và trên thực tế đã được thực thi nhưng chỉ có một chiều. Như vậy, khi cho rằng nhu cầu giao lưu văn hóa giữa quốc nội và hải ngoại “trở nên bức thiết” phải chăng VC đã tỏ ra nóng lòng trong việc nhuộm đỏ văn hóa hải ngoại bằng văn hóa Marxist? Người xưa đã dạy: Văn Hóa còn, Dân Tộc còn. Như vậy ta có thể nói, Văn hóa Marxist còn, chế độ CS còn. Chế độ CS còn, Dân Tộc VN còn điêu đứng!
-“Nhu cầu giữ gìn và phát triển tiếng Việt trong cộng đồng là rất lớn và bức thiết song chưa được đáp ứng”
Cách đây 30 năm, cụ Bùi Vân Bảo, một thi sĩ nổi tiếng và cũng là một nhà giáo lão thành định cư tại Canada, đã có hai câu đối nhằm khuyên phụ huynh chú ý đến việc dạy con em học và nói tiếng Việt:
Chỉ sợ đàn con quên tiếng Việt
Đừng lo lũ trẻ dốt Anh văn
Sau đó, Cụ đã soạn vần Việt ngữ cho trẻ em. Vào năm 1978, Cụ đã bỏ công sức sưu tầm, chú thích và xuất bản hai tập Thi Ca Cổ Điển. Dần dần về sau nhiều Trung tâm dạy Việt ngữ đã khai giảng tại các tiểu bang, nhất là tại California và miền Đông Hoa Kỳ. Ngoài ra, các khóa tu nghiệp sư phạm cũng đã được tổ chức. Mới đây, khóa thứ 16, với chủ đề “ Trách Nhiệm Chung Của Người Việt Hải Ngoại Trong Việc Bảo Tồn – Phát Triển Ngôn Ngữ Và Văn Hóa Việt”, đã được khai giảng ngày 6-8-2004 với 172 khóa sinh của 42 Trung Tâm Việt Ngữ khắp nơi đổ về miền Nam California. Trong buổi lễ bế giảng ngày 8-8-2004, ban tổ chức khóa tu nghiệp đã giới thiệu bộ sách giáo khoa đã được ban đại diện các Trung tâm Việt ngữ ấn hành. Đây là một bộ sách căn bản, được soạn rất công phu, có sự kết hợp giữa phương pháp giảng dạy khoa học và nội dung phong phú đầy tinh thần dân tộc (Người Việt online, ngày 9-8-2004)
Như vậy, bảo rằng “nhu cầu giữ gìn và bảo vệ tiếng Việt…chưa được đáp ứng” là xuyên tạc, một lần nữa, nói lên bản chất ăn gian nói dối của họ.
Ở đoạn cuối của phần 1, NQ nhận định rằng “Chiến dịch đánh tư sản mại bản ở nước ngoài” chưa “đạt yêu cầu”, cần phải “hạ quyết tâm” hơn nữa……”Các chính sách đã ban hành chưa đồng bộ và chưa thể hiện tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc (lại đại đoàn kết nữa!), chưa khuyến khích mạnh mẽ người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, đóng góp cho công cuộc phát triển đất nước…”, “Sự đóng góp của bà con vào công cuộc xây dựng đất nước (thật ra là công cuộc cứu đảng), nhất là về trí thức, chưa tương xứng với tiềm năng của cộng đồng người VN ở nước ngoài.”
2. Chủ trương và phương hướng công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian tới.
Phần này gồm 4 điểm, lải nhải những điều đã nói ở phần I và sẽ nói ở phần IV.
1.”Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Lại chiêu bài “đại đoàn kết toàn dân tộc”! Người viết đã bàn nhiều về chiêu bài này, xin miễn lập lại
2.”Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc VN, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường hợp tác hữu nghị giữa nước ta và các nước”.
Tục ngữ có câu “ Có tiền mua tiên cũng được”. Ứng dụng vào trường hợp này rất đúng:” Tiềm lực kinh tế nhất định…trình độ học vấn và chuyên môn cao…vị trí quan trọng trong các cơ quan.” (phần 1 của NQ 36) là chiếc đũa thần đã biến “ bọn ma cô, đĩ điếm, rác rưởi hôi tanh” thành “ bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt.”Tiếp theo đó NQ 36 ghi:
“Nhà nước có trách nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người VN ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế.”
Sống ở quốc gia nào, đồng bào tuân hành luật pháp của quốc gia đó và quyền lợi của đồng bào được chính luật pháp của quốc gia đó bảo vệ. Luật pháp của các quốc gia dân chủ Tây phương không phải là luật rừng, muốn bỏ tù, muốn quản chế ai thì cứ chụp cho người ấy cái mũ “gián điệp” hoặc “lợi dụng dân chủ” hoặc “ xâm phạm quyền lợi của nhà nước”. Như vậy, đồng bào hải ngoại đâu cần “nhà nước ta thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định”.Đồng bào đã ổn định cuộc sống từ lâu rồi kia mà, chính NQ 36 cũng xác nhận trong phần I. Chẳng lẽ “nhà nước ta thỏa thuận với các nước hữu quan” để đồng bào hiếp dâm trẻ thơ 13 tuổi, rồi có thể dùng tiền để chạy tội như trường hợp của một Uûy viên Trung ương đảng CSVN có chức vụ ngang hàng thứ trưởng?
Đặc biệt, trong điểm này, NQ 36 đã ra chỉ thị cho bọn nằm vùng “ chủ động đấu tranh với các biểu hiện cố tình đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc”. “Các biểu hiện” này không có gì khác hơn là các cao trào vận động tự do, dân chủ và nhân quyền cho VN.
- Điểm 3 và 4 không có gì đáng bàn cãi vì chỉ lập lại những gì đã nói ở phần I và sẽ nói ở phần IV.
3. Nhiệm vụ chủ yếu.
NQ 36 đề ra 9 nhiệm vụ chủ yếu mà đảng, đoàn, mặt trận tổ quốc, chính phủ “hạ quyết tâm” chu toàn.
1.”Tạo mọi điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập vào đời sống nước sở tại, đồng thời duy trì quan hệ gắn bó với quê hương đất nước.”
Hầu hết người Việt hải ngoại là thường trú nhân hoặc đã có quốc tịch quốc gia nơi họ định cư. Họ đã ổn định cuộc sống, làm ăn phát đạt, hội nhập vào đời sống xã hội tại các nước sở quan từ lâu, rất lâu trước khi nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN được Hoa Kỳ cho phép đặt “Tòa Đại Sứ” tại Hoa Thịnh Đốn. Sở dĩ như vậy là vì các quốc gia nơi đồng bào định cư có tinh thần thượng tôn luật pháp chứ không dùng luật rừng để khống chế dân chúng. Như vậy, đồng bào không cần bất cứ ai “hỗ trợ”. Còn việc “gắn bó với quê hương đất nước”, nó bắt nguồn từ tình tự dân tộc, từ lòng yêu nước chân thật, không cần ai “tạo điều kiện và hỗ trợ”. Có ai “hỗ trợ” đâu mà đồng bào hải ngoại đã nhiều phen bày tỏ sự “gắn bó “đó: vì “gắn bó với quê hương đất nước” mà người Việt hải ngoại đã lên tiếng nguyền rủa và kết án bọn dâng đất dâng biển cho Trung Cộng…
2.”Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước.”
Đối với CSVN, trí thức chỉ có thể dùng làm “phân bón” chứ làm thế nào đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước được! Người trí thức không bao giờ quên trường hợp của triết gia Trần Đức Thảo và luật sư Nguyễn Mạnh Tường cũng như khẩu hiệu “Trí, phú,ù địa, hào; đào tận gốc, bốc tận rễ.”
3.” Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người VN ở nước ngoài hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nước.”
Tệ nạn tham nhũng còn phủ trùm đất nước thì đừng hòng thu hút đầu tư. Những trường hợp nhà nước tìm cách lấy sạch tài sản của kiều bào tin lời CSVN mang tiền về đầu tư không phải là ít: Nguyễn Trung Trực ở Uùc, Trương vĩnh Bình ở Hòa Lan, LHS ở Hoa Kỳ… Còn nhiều đồng bào hải ngoại khác mang tiền về VN kinh doanh bị CSVN đem luật “xã nghĩa” áp dụng, phải trở về quốc gia nơi định cư với hai bàn tay trắng, nhưng vì tự ái không thuật lại trường hợp “bỏ của chạy lấy người” của mình.
4.”Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động, các hình thức tập họp với mục đích đoàn kết người VN ở nước ngoài quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, khuyến khích những hoạt động hướng về tổ quốc của bà con, nhất là của thế hệ trẻ…”
Từ năm 1976, người Việt tỵ nạn CS đã bắt đầu thành lập các cộng đồng, các hội đoàn, các hội ái hữu, các hội tương tế để giúp đỡ lẫn nhau và khi cần, đồng bào đã đoàn kết chặt chẽ với nhau đâu cần CSVN “đa dạng hóa các phương thức vận động, các hình thức tập họp”. Nếu đồng bào không đoàn kết thì làm sao đập tan được âm mưu của CSVN trong vụ Trần Trường, thành công trong chiến dịch CỜ VÀNG, xây dựng được Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ ở Nam California, cấm cửa phái đoàn CSVN không được bén mảng tới hai thành phố Garden Grove và Westminster ở Nam California, vận động được Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ thông qua dự luật nhân quyền cho VN…Cần ghi nhận rằng thế hệ trẻ đã đóng góp rất nhiều vào sự thành công của các cuộc vận động nói trên.
Với nhiệm vụ nêu trên, phải chăng CSVN muốn biến các tổ chức đương hữu của người Việt hải ngoại thành những tổ chức quốc doanh để dễ bề thao túng và yêu cầu ủng hộ định kỳ hoặc bất thường ? có điều chắc chắn CSVN sẽ tung tiền để thuê bọn tay sai nằm vùng trong các cộng đồng lập thêm những hội đoàn mới đối nghịch với các hội đoàn đương hữu, nghĩa là xé nát các cộng đồng thành ra nhiều mảnh nhỏ!
Cũng trong nhiệm vụ thứ tư này, CSVN “chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người VN ở nước ngoài, kể cả với những người còn có định kiến, mặc cảm với nhà nước và chế độ ta.”
Tiếp xúc để làm gì? Để dò la gia cảnh của chúng ta, để yêu cầu chúng ta cho con em tham dự trại hè, các cuộc chơi ngoài trời, các lớp học Việt ngữ do họ tổ chức, mời chúng ta tham dự các cuộc nói chuyện”bỏ túi” của họ, nhất là để yêu cầu chúng ta đóng góp định kỳ và bất thường, giúp “nhà nước ta phát triển đất nước”.
“Người Việt ở nước ngoài” không có bất cứ một thứ mặc cảm nào với CSVN. Viết như NQ 36 là hỗn, là trịch thượng. “Người Việt ở nước ngoài” không có mặc cảm với bất cứ ai mà chỉ có một nhận định, một quyết tâm và một niềm hãnh diện. Nhận định:CSVN đàn áp tôn giáo, chà đạp nhân quyền, tiêu diệt dân chủ, dâng đất dâng biển cho Trung Cộng, cố tình làm cho xã hội băng hoại, để dễ bề thống trị, đang dìm đất nước xuống vũng lầy lạc hậu và sẽ dâng VN cho Tàu để tái tạo một thứ “Cửu Chân, Nhật Nam” tân thời. Quyết tâm:Tạo điều kiện tiên quyết để VN vươn lên bằng cách giải thể chế độ CSVN. Một niềm hãnh diện: Dân quân miền Nam đã chiến đấu một cách anh dũng chống lại cả tập đoàn CS quốc tế gồm Liên Bang Xô Viết, Trung Cộng, Bắc Hàn, Cuba, Khối CS Đông Âu và CSVN; người Việt tỵ nạn CS còn hãnh diện về hai sự kiện lịch sử: Đập tan trận Tổng công kích Tết Mậu Thân của CSBV và trận hải chiến Hoàng Sa vào hồi 10:20 sáng ngày 19-1-74 giữa Hải quân VNCH và Hải quân Trung Cộng.
5.”Tích cực đầu tư cho chương trình dạy và học tiếng Việt cho người VN ở nước ngoài nhất là cho thế hệ trẻ”
Vấn đề này người viết đã phân tích ở phần trên. Ở đây, xin nói về ý đồ của CSVN. Tâm thức của trẻ thơ như tờ giấy trắng, trên đó muốn vẽ gì thì vẽ. Mở các lớp dạy tiếng Việt cho trẻ thơ với sách giáo khoa do CSVN biên soạn, với các giáo viên do họ cử đến, CSVN chỉ nhằm nhồi sọ con cháu chúng ta với những giáo điều Mác Lê và “tư tưởng Hồ Chí Minh”, những giáo điều và tư tưởng chống lại ý thức quốc gia dân tộc. Sự nhồi sọ này sẽ biến mỗi gia đình người Việt hải ngoaị thành một địa ngục trần gian, trong đó con chống cha mẹ, cháu chống ông bà.
NQ 36 còn đề ra nhiệm vụ “Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên người VN ở nước ngoài”. Trong các trại hè này sẽ có nhiều bài thuyết trình. Thuyết trình về đề tài gì? Trước hết các trại viên sẽ được học tập NQ 36, các chiêu bài “hòa giải, đại đoàn kết toàn dân tộc. xóa bỏ hận thù. khép lại quá khứ, nhìn về tương lai, công cuộc đổi mới, tư tưởng Hồ Chí Minh”… Nói tóm lại, nhân viên”sứ quán”CSVN sẽ thuyết trình để các trại viên có một cái nhìn về các đề tài nói trên theo như ý họ muốn. Nhưng họ sẽ thất bại bởi lẽ thanh thiếu niên VN ở hải ngoại không quá ngây thơ như họ tưởng!
6.”Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền, giúp cho người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng tình hình đất nước và chính sách của đảng và nhà nước…Hỗ trợ việc ra báo, mở đài phát thanh”
Muốn hiểu đúng tình hình đất nước, người Việt tỵ nạn chỉ nghe đài “Tiếng Nói Hoa Kỳ” hoặc “Đài Á Châu Tự Do” vì các đài này chỉ làm công tác thông tin chứ không làm công tác tuyên truyền! Các báo, các đài phát thanh, truyền hình VC vừa “thông tin”, vừa “tuyên truyền”. Thông tin thì bưng bít, tuyên truyền thì lừa bịp. Như vậy, nghe đài, đọc báo VC, làm sao đồng bào hải ngoại hiểu đúng tình hình đất nước được? Về chính sách của “đảng và nhà nước”, không cần nghe đài, không cần đọc báo VC, chúng ta cũng thừa biết đài và báo ấy tô son điểm phấn các chính sách của đảng và nhà nước VC; nhưng thực chất, các chính sách ấy chỉ là những chiêu bài lừa gạt dân chúng, chẳng hạn như “chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc”, “chính sách hòa hợp”, “chính sách đổi mới”, “chính sách về tôn giáo”…
7.”Hoàn chỉnh chính sách khen thưởng đối với người Việt Nam ở nước ngoài, đưa vào nền nếp việc khen thưởng các tổ chức và cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài có thành tích trong vận động xây dựng cộng đồng.”
Đây là vấn đề nội bộ của CSVN trong nước và bọn tay sai ở hải ngoại. Tuy nhiên, việc “khen thưởng” này có thể gây chia rẽ và tạo nghi kỵ trong cộng đồng người Việt hải ngoại: Một ngày nào đó, bỗng nhiên đồng bào thấy tên ông Chủ Tịch cộng đồng của mình trong một Bản Tuyên Dương của VC. Đồng hương sẽ nghĩ gì? Có nhiều đồng hương cho rằng đây chỉ là trò chơi bẩn của VC; nhưng cũng có nhiều đồng hương cho rằng “tên chủ tịch” này thực sự đã trở cờ; nhiều đồng hương khác tỏ ra dè dặt với đương sự và sẽ không còn cộng tác chặt chẽ với cộng đồng như trước nữa…!
8.”Đẩy mạnh công tác bảo hộ công dân và bảo vệ những quyền lợi chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài”
Một lần nữa, xin nhắc lại: “Cộng đồng người Việt ở nước ngoài” từ 30 năm nay đã được luật pháp văn minh của “nước ngoài” “ bảo hộ và bảo vệ quyền lợi” một cách rất hữu hiệu; “người Việt ở nước ngoài” chưa hề bị chính phủ các “nước ngoài” cướp giựt qua chánh sách đổi tiền, họ cũng chưa hề bị chụp mũ “gián điệp” hoặc “lợi dụng dân chủ”, hoặc “xâm phạm quyền lợi của nhà nước” để bị cầm tù mà không được xét xử; người viết cũng chưa hề nghe” người Việt ở nước ngoài” bị “quản chế”. Vậy xin đừng” đẩy mạnh công tác bảo hộ công dân ở nước ngoài”.CSVN nên “đẩy mạnh công tác”cứu vớt các thiếu nữ nghèo khó của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long bị “đảng và nhà nước ta” đồng lõa trong việc gả bán làm vợ cho các tên khuyết tật hoặc bạo dâm ở Đài Loan. Xin đọc một đoạn ngắn trong bản tin Người Việt online ngày 12/8/2004:” Một bản tin từ địa phương cho hay, cô Đoàn Nhật Linh, 21 tuổi, đã nộp đơn kiện người chồng Đài Loan về tội tra tấn hành hạ, bỏ đói cô từ tháng 7/2002 đến tháng 2/2003 rồi chở cô đi vất ở một chỗ vắng. Nhờ có sự giúp đỡ của người qua đường, cô được vào bệnh viện cấp cứu khi chỉ còn 27 kilô, với nhiều dấu vết tra tấn còn trên thân thể. Câu chuyện này đã gây căm phẫn cho cộng đồng người Việt khắp thế giới trong khi nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn giữ yên lặng, tương tự như khi người Việt Nam khắp nơi phản ứng mạnh mẽ khi website bán đấu giá ở Đài Loan quảng cáo bán 2 cô gái Việt Nam cho ai trả giá cao nhất.” Ngoài ra, CSVN cũng nên”đẩy mạnh công tác bảo vệ” người VN ở Nga đang bị người địa phương kỳ thị : hành hung, đả thương, đốt chợ…”Một công tác khác mà CSVN cần “đẩy mạnh”, là giải thoát các trẻ em năm bảy tuổi bị “đảng và nhà nước ta” a tòng với bọn tú bà xuất cảng sang Miên để làm gái điếm theo lối khẩu dâm!!!
9.”Tăng cường cán bộ chuyên trách về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài tại các cơ quan đại diện ngoại giao VN ở những nơi có đông người VN sinh sống”
Đám cán bộ này sẽ len lỏi vào cộng đồng, làm quen với người Việt tỵ nạn. Sau khi đã trở nên thân thiết, chúng sẽ dở trò rỉ tai, bôi nhọ những người quốc gia chống cộng. Ngoài ra, chúng ta cần nhớ chiến thuật” trồng người ,gây giống” của VC trong thời gian chờ tập kết tại Nam Ngãi Bình Phú, sau hiệp định đình chiến ngày 20/7/54.
4. Tổ chức thực hiện.
Trong phần này, NQ 36 phân công phân nhiệm cho các cơ cấu của đảng CSVN từ Ban bí thư xuống đến tỉnh ủy, thành ủy của họ nhằm thực hiện NQ:
-“Phổ biến rộng rãi NQ đến cán bộ, đảng viên, và mọi tầng lớp nhân dân trong nước và đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.”
Nhờ đó mà Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn CS mới biết CSVN đã công khai hóa chiến dịch nhuộm đỏ Cộng đồng người Việt hải ngoại chúng ta bằng cách đánh phá, gây chia rẽ, chiêu dụ, trục lợi…một chiến dịch mà chúng đã phát động một cách âm thầm lặng lẽ từ bao nhiêu năm qua.
-“Cụ thể hóa nội dung NQ 36 thành chương trình hành động”.
Để cụ thể hóa các chỉ thị của Bộ chính trị ghi trong NQ 36, Thủ tướng VC đã “sản sinh” ra cái gọi là Quyết định số 110/2004/QD/TU ngày 26/3/2004 ấn định “chương trình hành động” với 10 công tác phải thực hiện. Các công tác này thực ra chỉ rút ra từ “9 nhiệm vụ chủ yếu” mà người viết đã có dịp phân tích. Chúng chứa toàn những chiêu bài có tác dụng ru ngủ, chiêu dụ đồng bào và phá nát cộng đồng người Việt hải ngoại.
-Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy có liên quan đến người VN ở nước ngoài”
Hiến pháp năm 1992 của VC công nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thế mà vào ngày 18/6/2004, Uûy ban thường vụ của quốc hội VC đã thông qua pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo, nhằm hạn chế tới mức tối đa quyền tự do này. Pháp lệnh nói đây có hệ cấp pháp lý thấp hơn một đạo luật vì do Uûy ban thường vụ thông qua chứ không do quốc hội thảo luận và biểu quyết. Thế mà nó lại đi ngược lại văn kiện tối cao trong hệ cấp pháp lý là hiến pháp. Vậy thử hỏi “ các văn bản pháp quy có liên quan đến người VN ở nước ngoài”, nhằm chiêu dụ, ve vãn kiều bào, sẽ có giá trị như thế nào ? Chắc chắn các “văn bản” ấy sẽ bị ném vào sọt rác bất cứ lúc nào VC muốn. “Hãy nhìn kỹ những gì CS làm, đừng nghe(hay đọc) những gì CS nói (hay viết)!
- “Theo dõi việc thực hiện NQ và tổ chức kiểm tra định kỳ, nghe báo cáo về tình hình công tác đối với người VN ở nước ngoài”
Công tác này do Ban bí thư đảng CSVN đảm trách với sự trợ giúp của “Ban cán sự đảng ngoài nước”. Như vậy, VC đã xác nhận “cán sự đảng” đang lềnh khênh ở nước ngoài. Người Việt trong các cộng đồng nên cố gắng chiêu hồi họ trở về với chính nghĩa dân tộc hoặc đề cao cảnh giác để họ không xâm nhập cộng đồng!
Qua phần phân tích và trình bày trên đây, người viết xin nhận định xem VC muốn gì khi vội vã ban hành NQ 36.


B. Tác dụng của NQ 36.
Theo thiển ý, khi vội vã ban hành NQ 36, Bộ chính trị VC nhằm tạo 4 loại tác dụng : Ru ngủ, chiêu dụ, đánh phá., thi hành diễn biến hòa bình đảo ngược. Sự vội vã nói đây được ghi nhận qua sự soạn thảo NQ 36 : dài dòng văn tự, nhiều điệp ý, nhận định sai lầm, đầy hoang tưởng, ý đồ quá lộ liễu, nhất là xem thường sự hiểu biết của Cộng đồng người Việt hải ngoại về bản chất lừa bịp của CSVN.
1.Tác dụng ru ngủ
Từ khi chiếm được miền Bắc vào năm 1955 cho đến 5 năm sau khi thôn tính được miền Nam, VC không hề tổ chức Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương. Bỗng dưng năm 2001, họ cử hành Lễ Giỗ Tổ một cách trọng thể và sau đó họ ban hành NQ số 35/NQ/TU ngày 9/2/2004 quy định các ngày đại lễ trong hai năm 2004-2005 trong đó có ghi Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương. Đây là một sự việc mới lạ chưa từng thấy trong gần nửa thế kỷ qua! Tại sao lại có “hiện tượng về nguồn” nói đây? Phải chăng VC đã thay đổi tư duy? Người viết không nghĩ như thế. Xin nhắc lại lời nói của văn hòa Solzenitsyne:” Đi xe đạp từ mặt đất lên mặt trăng còn dễ hơn là làm cho CS từ bỏ bạo lực và thay đổi tư duy”. VC không thay đổi tư duy, thế tại sao trong gần nửa thế kỷ, họ bỏ mặc Đền Hùng cho gió mưa tàn phá, cho cỏ dại ngập lối đi, cho muông thú làm hang ổ, bỗng nhiên năm 2001, họ bỏ ra hàng tỷ bạc để tái chỉnh trang Đền Hùng và tưng bừng tổ chức Lễ Giỗ Tổ như đã nói trên? Phải chăng họ muốn sử dụng đại lễ này như một phương tiện nhằm xoa dịu cơn phẫn nộ của quần chúng và làm cho quần chúng lãng quên tội ác của họ trong việc lén lút ký kết vào cuối năm 1999 và năm 2000, hai hiệp định dâng đất dâng biển cho Trung Cộng?
Theo thiển ý, khi ban hành NQ 36, Bộ chính trị VC cũng nhằm vào tác dụng ru ngủ, nghĩa là làm cho người dân trong nước và người tỵ nạn CS lãng quên các vấn đề sau đây vì mãi tìm phương pháp để vô hiệu hóa NQ 36!
-Việc quốc hội VC phê chuẩn hai hiệp định dâng đất ,dâng biển cho Trung cộng.
-Vấn đề Tây Nguyên với hàng trăm đồng bào Thượng bị CSVN thảm sát và hàng ngàn đồng bào Thượng khác phải trốn vào rừng, chết vì đói lạnh hoặc phải bỏ xứ mà đi!
-Nạn tham nhũng “hết thuốc chữa” của các “quan chức” CSVN từ thượng tầng đến hạ đẳng.
-Chiến dịch đàn áp tôn giáo và chà đạp nhân quyền do VC tiếp tục phát động với “pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo”sẽ có hiệu lực vào ngày 15/11/2004
-Chính sách “đem con bỏ chợ” trong việc xuất khẩu công nhân để làm “nô lệ” hầu trả những món nợ khổng lồ cho các nước “xã hội chủ nghĩa anh em”.
-Xuất cảng trẻ thơ và thiếu nữ để phục vụ tình dục cho ngoại bang hầu thu tiền về cho đảng.
-Nạn mãi dâm, ma túy đang tràn ngập hai thành phố Saigon, Hà Nội và các tỉnh le.û
Một vấn đề khác có tính cách sinh tử đối với CSVN mà họ cố tình dấu diếm hoặc làm cho toàn dân quốc nội lẫn hải ngoại không chú ý tới…Đó là “Loạn Trào Ca” hay “Loạn Ba Đình” tức sự rạn nứt trầm trọng trong hàng ngũ chóp bu của CSVN. Đây có lẽ là vấn đề gây nhiều bối rối và lo âu cho VC.
Sự rạn nứt nói trên đã có từ lâu trong đảng CSVN với vụ án “xét lại chống đảng”, với sự hạ tầng công tác Võ Nguyên Giáp, với sự sát hại các tướng VC, tay chân của Võ Nguyên Giáp và là đại công thần của chế độ như Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Trần Bình, Đinh Đức Thiện, các nghi án về cái chết của Phạm Hùng và Trường Chinh Đặng Xuân Khu(7). Mới đây, Thượng tướng VC Nguyễn Nam Khánh (NNK) đã gửi Bộ chính trị CSVN một bức thư đề ngày 17/6/2004 tố cáo một sự “tàn sát chính trị” do Tổng cục 2( Tổng cục tình báo, quân báo và phản gián) thuộc Bộ quốc phòng CSVN, thực hiện bằng cách bịa ra một tên có bí danh là T4 “nằm trong CIA để mật báo nhằm “vu khống” giới lãnh đạo thượng tầng của VC :giới này đã tiếp xúc và nhận sự chỉ đạo của CIA! Đám lãnh đạo thượng tầng này gồm những ai? NNK cho biết T4, “nằm vùng” trong CIA, đã nêu các tên tuổi sau đây: Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Lê Khả Phiêu, Mai Chí Thọ, Trương Tấn Sang, Võ Trần Chí, Bùi Thiện Ngộ, Võ Viết Thanh,, Lê Văn Dũng, Nguyễn Nam Khánh, Phan Diễn…Thực ra bức thư của NNK không có gì mới lạ, nó bắt ngườn từ sự tranh chấp giữa hai đại tướng CSVN là Võ Nguyên Giáp và Lê Đức Anh vào năm 1991 và những năm về sau cho đến ngày nay. Tuy nhiên bức thư của NNK có nhiều chi tiết hơn các văn bản được phổ biến trước đây và có tác dụng nguy hại hơn cho sự “đoàn ketá nhất trí” và “nền tảng” của đảng CSVN.
Liệu NQ 36 và sự ồn ào quanh nó có thể làm cho người dân quốc nội và đồng bào hải ngoại không còn lưu tâm đến các vấn đề nêu trên nữa hay không ? Người viết nghĩ rằng không bởi một lẽ rất đơn giản là các vấn đề kể trên được VC lập đi lập lại hàng ngày: tham nhũng, cấu xé lẫn nhau để giành ngôi vị, đàn áp tôn giáo, chà đạp nhân quyền, xóa bỏ dân chủ, tiêu diệt đồng bào thiểu số, tiếp tục a tòng xuất cảng trẻ thơ và thiếu nữ miền Nam để làm gái mãi dâm và làm “dâu” Đài Loan, chấp nhận triều cống và sẵn sàng dâng thêm đất và biển cho Trung Cộng để “duy trì tình hữu nghị”!
2.Tác dụng chiêu dụ.
Có hai thứ mà CSVN rất thèm muốn :kỹ thuật và ngoại tệ mà họ tìm mọi cách để chiêu dụ.
Về các ngành chuyên môn và thuật quản trị, hải ngoại có thể về đóng góp trong các cuộc hội thảo, hoặc thuyết trình về các vấn đề chuyên môn hay giảng dạy theo quy chế giáo sư thỉnh giảng. Còn vấn đề về ở hẳn làm công dân của nước CHXHCNVN để đóng góp chất xám dưới quyền lãnh đạo của những kẻ có nhiều “hồng” mà chẳng có “chuyên” lại là một việc khác. Triết gia Trần Đức Thảo đã về VN và đã được giao việc dịch truyền đơn kêu gọi lính Pháp đào ngũ; sau đó Hồ Chí Minh bảo:”Chú đã học nhiều kiến thức phương Tây; bây giờ chú cần học ở nhân dân.” Tiến sĩ văn chương kiêm Tiến sĩ luật khoa Nguyễn Mạnh Tường đã về nước và dạy ở trường Dự bị đại học và sau ngày đình chiến (1954) về dạy ở trường Đại học văn khoa. Trong một buổi họp của Mặt trận tổ quốc tại Hà Nội, ngày 30-10-1956, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã đọc bài diễn văn với tựa đề “Qua Những Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất – Xây Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo”. Sau bài diễn văn này, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã bị cô lập và bị đẩy vào một tình trạng bi đát. Trên đây là hai trường hợp trong nhiều trường hợp điển hình về số phận của các nhà trí thức yêu nước, thương dân nhưng không chịu yêu XHCN và nhất là không chịu nịnh “dảng”!
Ngoài trí thức, CSVN còn cần ngoại tệ. Trên 3 tỉ Mỹ Kim người Việt hải ngoại gửi hoặc mang về hàng năm, họ chưa cho là đủ. Thật vậy, trong phần 1 của NQ 36, Phan Diễn viết:” Sự đóng góp của bà con vào công cuộc xây dựng đất nước, nhất là về trí thức (VC nên nói thật lòng mình: nhất là về đô la), chưa tương xứng với tiềm năng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Một điểm CSVN có thể đã thấy trước. Đó là nguồn ngoại tệ từ hải ngoại về VN sẽ cạn dần, về cả hai phương diện “gởi” và “mang”: Oâng A gửi tiền hoặc mang tiền về thăm cha, me hoặc anh, chị, em ; cha mẹ anh chị em qua đời, ông A chấm dứt việc gửi tiền hoặc mang tiền về thăm; ông A qua đời, con cháu của ông ta sẽ không làm đượïc như ông ta. Do đó, NQ 36 đã đề ra phương thức “thường xuyên tổ chức…du lịch về nguồn”. Phương thức này có thể có hai tác dụng: thu ngoại tệ qua hình thức xuất cảng vô hình (du lịch) và hâm nóng tình gia tộc để con cháu nối tiếp công việc của ông cha đã qua đời: gửi tiền và mang tiền về thăm thân nhân.
Nhưng du lịch VN cũng có nhiều hạn chế: ô nhiễm nước uống, ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng động, cướp giựt, tai nạn xe cộ, luật rừng , (có thể bị chụp mũ CIA, gián điệp)yêu cầu đóng góp để “phát triển đất nước”.

3.Tác dụng đánh phá.
Như trên đã nói, việc tổ chức dạy Việt ngữ với sách giáo khoa do VC soạn và giáo viên do VC cử đến có thể reo rắc vào tâm hồn của con cháu chúng ta những tư tưởng hắc ám và, do đó chúng chống lại cha mẹ, ông bà. Gia đình nào có con em tham dự lớp Việt ngữ do VC tổ chức sẽ tiếp nhận một hoặc vài tên “công an bé con” trong gia đình. Xin nhớ lại tình trạng này trong những năm tháng sau ngày VC cưỡng chiếm miền Nam.
“Chính sách khen thưởng đối với người Việt Nam ở nước ngoài có thành tích trong vận động xây dựng cộng đồng” sẽ có tác dụng tạo ra sự nghi ngờ , dè dặt giữa những thành viên trong cộng đồng người Việt tị nạn CS và, do đó, sẽ vô hiệu hóa các hoạt động của cộng đồng trong công cuộc đấu tranh nhằm giải thể chế độ CSVN. Mặt khác, sự khen thưởng nói trên sẽ đưa đến việc thành lập nhiều hội đoàn, nhiều cộng đồng có cùng một mục đích với thành phần hội viên giống nhau: Hội Cựu Quân Nhân, Hội Cựu Chiến Sĩ, Hội Cựu Quân Nhân Chống Cộng…Các hội này sẽ “ngồi nhìn nhau” để bới lông tìm vết, phê bình, chỉ trích, đả kích, bôi nhọ lẫn nhau chứ “không nhìn về một phía”, phía CSVN, để xem họ giở trò gì trong chiến dịch nhuộm đỏ cộng đồng người Việt hải ngoại.
Với việc “tăng cường cán bộ tại các cơ quan đại diện ngoại giao” và việc “ chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người VN ở nước ngoài”, CSVN quyết tâm xâm nhập cộng đồng người Việt tị nạn để rỉ tai tuyên truyền các chiêu bài của họ với từng người Việt tị nạn một hoặc với từng nhóm nhỏ và nhất là để gây mâu thuẫn giữa những người Việt tị nạn CS hầu phá nát cộng đồng hải ngoại, chiến tuyến chống cộng rất tích cực và hữu hiệu. Sau hết, và xin lập lại, các cuộc tiếp xúc đó cũng là dịp để đám cán bộ VC xin đồng bào ủng hộ định kỳ tiền bạc để đảng và nhà nước “phát triển đất nước”. Đồng bào nào đã về VN hẳn có nhiều kinh nghiệm về việc này với đám cán bộ VC trong nước, nhất là ở các tỉnh.

4.Tác dụng diễn biến hòa bình đảo ngược.
CSVN đang bối rối và sợ hãi diễn biến hòa bình mà Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Phương đang thực hiện nhằm thay đổi dần dần chế độ CSVN. Để hóa giải tác hại của diễn biến hòa bình nói đây, CSVN nỗ lực “tổ chức thực hiện thắng lợi NQ 36”, nhằm tạo một thứ diễn biến hòa bình đảo ngược để từ từ thay đổi cộng đồng người Việt hải ngoại theo chiều hướng họ muốn. Diễn biến hòa bình nào sẽ đạt thắng lợi sau cùng? Chắc chắn không phải diễn biến hòa bình đảo ngược vì các lẽ sau đây:
-Đồng bào quốc nội đã chán ngấy chủ nghĩa MácLê, một thứ chủ nghĩa mà “thầy không muốn dạy, trò không muốn học”;
-Sau 50 năm thống trị miền Bắc và 30 năm đô hộ miền Nam, CSVN đã để lộ chân tướng là một tập đoàn chỉ yêu nước bằng mồm, mồm nói yêu nước mà hành động lại không thương dân. Cách đây mấy năm, dân đói đến độ phải ăn xương rồng mà sống lây lất qua ngày. Ở Quảng Nam có một gia đình ăn xương rồng, nấu không kỹ, đã chết toàn gia. Trong khi đó CSVN đem 10 tấn gạo dâng cho Bắc Hàn, đồng thời đẩy mạnh xuất cảng gạo để đem ngoại tệ về cho đảng. Nhờ đó mà đồng bào miền Nam đã ngậm ngùi nhờ đến câu nói cuả vị Tổng Thống nền Đệ nhị Cộng hòa:” Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm”.
-Với phương tiện truyền thông tối tân hiện nay, CSVN không còn có thể bưng bít và lừa bịp đồng bào quốc nội được nữa.
Vài ba lý do nêu trên cũng khá đủ để đồng bào quốc nội sẵn sàng chấp nhận diễn biến hòa bình mặc dù CSVN cố gắng chống lại.
Đối với cộng đồng người Việt hải ngoại, CSVN có thể nghĩ rằng đó chỉ là “con quạ” khù khờ trong bài ngụ ngôn “Le Corbeau et le Renard” của La Fontaine, còn mình là “con cáo” khôn ngoan. Do đó, họ chắc mẻm sẽ xơi tái Cộng đồng ấy với cái “diễn biến hòa bình đảo ngược” . Họ đã lầm! Lầm vì xem thường sự hiểu biết của cộng đồng người Việt về cái bản chất lừa bịp của họ. Tuy nhiên, nếu chúng ta thờ ơ, khinh xuất, không đề cao cảnh giác, chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào cái bẫy sập”mật ngọt, chết ruồi”.
Trích đoạn bài: Kiều Vận - Nguyễn Tâm Bảo
http://namviettimes.wordpress.com/kieu-van/

No comments:

Post a Comment