Saturday, August 25, 2012

TRẠI GIAM CỔNG TRỜI - Gulag prison OF VIETNAM





"Trại giam Cổng Trời" có lẽ là một địa danh ít người biết đến. 
Trại Cổng Trời là một lò sát sinh đầy bí mật, tàn bạo và khoa học của cộng sản Hà Nội. Trại này đã bí mật chôn vùi hàng ngàn tù chính trị, tu sĩ và linh mục Công giáo, cùng những giới trí thức chống chủ nghĩa Cộng Sản của chính miền Bắc và hơn 300 tù biệt kích nhảy toán miền Nam.


"Trại Giam Cổng Trời" là một địa ngục nhốt người miền Bắc theo đạo Thiên Chúa cho đến chết thì thôi."









TRẠI GIAM QUYẾT TIẾN
















   "Trại Giam Cổng Trời" (phần 1)    AUDIO 1    

"Trại Giam Cổng Trời" (phần 2)    AUDIO 2

"Trại Giam Cổng Trời" (phần 3)    AUDIO 3

"Trại Giam Cổng Trời" (phần 5)    AUDIO 5
"Trại Giam Cổng Trời" (phần 6)    AUDIO 6
"Trại Giam Cổng Trời" (phần 7)     AUDIO 7
"Trại Giam Cổng Trời" (phần 8)     AUDIO 8
"Trại Giam Cổng Trời" (phần 9)     AUDIO 9 
  "Trại Giam Cổng Trời" (phần 10)   AUDIO 10






Friday, August 24, 2012

Những sự thật về “Cách Mạng Tháng Tám”

Cờ Vàng của tổ quốc đã từng treo rũ trước nhà hát lớn tại thành phố Hà nội 1945  
Buổi Mít-tinh của Tổng Đoàn Công Chức chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim ngày 17 tháng 8,1945.
Buổi Mít-tinh của Tổng Đoàn Công Chức để chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim bổng chốc trở thành biểu tình của Mặt Trận Việt Minh:

“Quả lừa lịch sử” bắt đầu chính là từ đây! Vận nước khốn nạn nhất cũng bắt đầu từ đây! (*) Trích đoạn  "Hồi ký của một thằng hèn" Tô Hải kể về ngày CM tháng 8 .

“Đúng ngày 17 tháng 8 năm 1945, chúng tôi kéo nhau đến quảng trường Nhà Hát Lớn Hà Nội mít-tinh chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim. Cuộc mít-tinh bắt đầu được mấy phút bỗng hàng loạt cờ đỏ sao vàng được tung ra, cờ quẻ ly bị giật xuống và trên bục diễn giả xuất hiện một người đeo poọc-hoọc, đăng đàn diễn thuyết, kêu gọi đồng bào đi theo Việt Minh, đánh Pháp, đuổi Nhật, đòi lại áo cơm, tự do, xóa bỏ gông xiềng... Những khẩu hiệu vừa phát ra đã có hàng ngàn người hô to hưởng ứng. Không một tiếng súng. Không một sự phản kháng từ ai, từ đâu, dù trại lính Nhật ở cách đó chỉ khoảng 300 mét!

Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh như thế đó!

Sau này, loại thanh niên “yêu nước hồn nhiên” bọn tôi đâu có dám lên tiếng khi nghe người ta tự tâng bốc kể công với lịch sử rằng “Đảng đã lãnh đạo toàn dân nổi dậy đánh Pháp, đuổi Nhật dành tự do, độc lập cho đất nước!”

Và các nhà viết sử Nhà Nước Cộng Sản cũng lờ tịt luôn cái chuyện Việt Minh cướp chính quyền từ chính phủ quân chủ lập hiến Trần Trọng Kim — không khác vụ lật đổ chính phủ Kerensky ở nước Nga trong lúc nội tình nước này đang bối rối.

Thực tế lúc ấy là…. chúng tôi có biết gì đến cái đảng cộng sản cộng xiếc, nhất là ông Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau đó còn công khai tuyên bố GIẢI TÁN ĐẢNG của ông ta trước thế giới và đồng bào cả nước! Trong chính phủ có đầy đủ các vị Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh.... và cả “cố vấn” Bảo Đại nữa.

“Quả lừa lịch sử” bắt đầu chính là từ đây! Vận nước khốn nạn nhất cũng bắt đầu từ đây!

(HAI AUDIO DƯỚI GIỐNG NHAU. BẠN CÓ THỂ NGHE TÙY THEO MÁY CÀI ĐẶT)

AUDIO Phỏng Vấn 
 
AUDIO Phỏng Vấn

Đồng bào miền Bắc mít tinh với Cờ Vàng tổ quốc trước nhà hát thành phố Hà nội 1945





Cờ Vàng Dân Tộc trước Tòa Nhà Toàn Quyền Đông Dương





Nhạc sĩ Tô Hải nói:

 “Cái ngày 19 tháng 8 ấy à? Như trên Blog tôi viết đấy, là tôi đi biểu tình.
Ai hô biểu tình, có ngày ba bốn lần đi biểu tình. Họ biểu tình phố, rồi biểu tình khu, rồi biểu tình thành này.
Ngày 17 thì còn cầm cờ vàng mà, ngày 19 thì là mới bắt đầu cầm cờ đỏ.” 


Nguyễn An, phóng viên RFA
2009-08-25
64 năm trước, những ngày này trên toàn đất nước Việt Nam là những ngày sôi động bởi không khí hực lửa của một cuộc đổi đời sau ngày 19 tháng 8 năm 1945.

Cho đến nay, ngày này vẫn được sách vở chính thống gọi là ngày tổng khởi nghĩa thành công, cướp chính quyền từ tay Pháp, hay từ tay Pháp và Nhật, hoặc từ tay Pháp, Nhật và chính phủ Trần Trọng Kim.
Nhưng nếu nhớ lại rằng Nhật đã đảo chính Pháp từ ngày 9 tháng 3, rồi Nhật lại đã đầu hàng Đồng Minh từ đầu tháng 8 cùng năm, thì cách nói “cứơp chính quyền từ tay Pháp và Nhật có lẽ không ổn chút nào” vì lẽ thực dân Pháp và phát xít Nhật đâu còn chính quyền để mà cướp? Vậy chỉ có thể nói là “cướp chính quyền Trần Trọng Kim” mà thôi.
Chính quyền chỉ tại chức tổng cộng 126 ngày này ra sao? Đã sụp đổ thế nào? Có phải là một chính quyền bù nhìn và phản dân hại nước hay không? Những gì đã xẩy ra trên đất nứơc Việt Nam trong thời gian ấy rất ít được nhắc đến trong các sách giáo khoa hiện nay.
Đó là một trong những điều mà nhạc sĩ Tô Hải -năm nay 83 tuổi- gọi là một “lỗ hổng lớn về giai đoạn lịch sử bi-hài-hùng này,” như được viết trong trang Blog của ông, nhân dịp nhớ lại ngày 19 tháng tám của 64 năm trứơc đây.
Mục Câu Chuyện Hàng Tuần kỳ này sẽ nói về “lỗ hổng” ấy, qua lời của một số vị lão thành từng tham gia, hay có mặt trong những diễn biến dồn dập sôi bỏng của những ngày tháng ấy.
Diễn biến của 64 năm trước

Khi biên tập viên Mặc Lâm của Ban Việt Ngữ hỏi về ngày 19 tháng 8 năm 1945, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Hồi ký của một thằng hèn” – Nhạc sĩ Tô Hải nói:  “Cái ngày 19 tháng 8 ấy à? Như trên Blog tôi viết đấy, là tôi đi biểu tình. Ai hô biểu tình, có ngày ba bốn lần đi biểu tình. Họ biểu tình phố, rồi biểu tình khu, rồi biểu tình thành này. Ngày 17 thì còn cầm cờ vàng mà (cười), ngày 19 thì là mới bắt đầu cầm cờ đỏ.”
Trong trang Blog, nhạc sĩ Tô Hải nhắc lại những khoảnh khắc lịch sử ngắn ngủi nhưng vô cùng quan trọng đối với lớp thanh niên tuổi ông thời bấy giờ, những người mà ông nói là đều “ngu ngơ, ngây thơ, dại dột”, cho nên (cũng theo lời ông) “số phận có thể mỉm cười hay xé xác bất kể anh nào.”
Mốc lịch sử thứ nhất của giai đoạn này là ngày 9 tháng 3, khi Nhật bất ngờ đảo chính Pháp, đưa toàn bộ các viên chức và thường dân Pháp vào trại giam. Tình hình ấy khiến cho giới thanh niên có cảm tình với người Nhật, lúc bấy giờ là “kẻ thù của kẻ thù.”
Sau 38 ngày Việt Nam không có một chính quyền thực sự nào để điều hành đất nứơc ngoài lực lượng của phát xít Nhật, ngày 17 tháng 4 năm 1945 thì chính phủ Trần Trọng Kim ra đời với thành phần là các chuyên gia trong nhiều ngành khác nhau mà ông Tô Hải gọi là những người “hy sinh liều mình cứu nước”.

Lá cờ của chính phủ Trần Trọng Kim lúc đó màu vàng, ở giữa có hình quẻ Ly màu đỏ và quốc thiều là bài “Đăng Đàn Cung”, bởi trong giai đoạn ấy, Việt Nam vẫn có vua là Vua Bảo Đại. Đó cũng là mốc lịch sử thứ hai của giai đoạn này.
Mốc lịch sử thứ ba là ngày 17 tháng 8 năm 1945, được nhạc sĩ Tô Hải viết trong Blog của ông như sau:
“Cho tới một ngày (17/8/1945) Đoàn Thanh Niên của chúng tớ tay cầm cờ quẻ li, miệng hát "Này thanh niên ơi…" đi Mít tinh chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim" thì mới trắng mắt ra rằng mình đã được huy động đi…" "Cướp chính quyền" từ tay chính phủ Trần Trọng Kim, do Việt Minh tổ chức mà không biết. 

Tất cả đều diễn biến rất nhanh chóng. Cờ quẻ li hạ xuống! Cờ đỏ sao vàng kéo lên và một người ,"quần nâu áo vải"đầu đội béret, tay cầm súng pặc họoc, thắt lưng đeo một, hai quả lựu đạn OF (lựu đạn khói) ra tuyên bố vài câu gì đó mà tớ đứng xa quá nên nghe chẳng rõ , chỉ nhớ lõm bõm có mấy câu..."Chính quyền đã về tay nhân dân" và sau đó thì…. hàng ngàn người như có gài sẵn kim hỏa trong lòng đã nổ tung ra thành những khẩu hiệu "Muôn năm!muôn năm!" long trời lở đất....  



Hàng chục lá cờ đỏ sao vàng được tung ra,kéo theo cả hàng ngàn người chạy ùa sang phủ thống sứ cũ (ở xế nhà hát lớn) phá cửa, leo hàng rào vào chiếm phủ Khâm sai đại thần. Mọi việc diễn ra nhanh chóng, chẳng khác gì cái cảnh tớ đã được xem sau này trong phim " Lê Nin với Cách Mạng Tháng 10) có trường đoạn chiếm Cung điện Mùa đông"!
Chỉ khác là ,ở V.N,không có súng nổ và chính phủ "bù nhìn" đi đâu? Ở đâu? Lúc đó? Có ai bị bắt,bị vào tù, bị "dựa cột" không thì chẳng có ai được biết,kể cả tớ ,cho tới tận bây giờ!
Cuộc tổng khởi nghĩa như thế là xong. Có mặt tớ cũng như không!Chẳng ai hay,ai biết....”

Bài viết của nhạc sĩ Tô Hải tức khắc nhận được 88 lời góp ý và một bài viết, với nội dung nói chung là cám ơn ông đã nói lên những điều không thấy trong sách sử đang được giảng dậy tại Việt Nam hiện nay. Một người viết như sau:
“Tôi sinh ngày 26-9-1927, là Thanh Niên Cứu Quốc thành hoàng Hiệu, tôi cũng là một người tham gia cướp chính quyền ở Hà Nội như bác. Tôi công nhận những điều bác kể phản ánh hoàn toàn đúng tình hình lớp thanh niên học sinh Hà Nội lúc đó.
Tôi xin bổ sung là đến bây giờ nghĩ lại, tôi phải công nhận là các vị trong chính phủ "bù nhìn Trần Trọng Kim" đều là những người thật sự sạch sẻ, họ có thể yêu nước theo cách này hay cách khác nhưng chắc chắn là họ không có chuyện lợi dụng chức quyền để tham nhũng đến trở thành 'quốc nạn".
Xin cảm ơn bác.”

Lời kể của các chứng nhân

Nhạc sĩ Phạm Duy khi đó 24 tuổi đang ở trong Miền Nam, nhưng trực tiếp tham gia vào dòng thác chuyển động lúc bấy giờ viết trong Hồi Ký của ông như sau:
“Sau khi Nhật đầu hàng, quân đội Nhật ở Việt Nam trao trả Phủ Toàn Quyền cho Phủ Khâm Sai Bắc Bộ. Để tỏ ý chí bảo vệ đất nước, vào ngày 17 tháng 9, công chức Hà Nội -được lệnh của vị Khâm Sai Phan Kế Toại- đứng ra tổ chức một cuộc mít-tinh ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. 

Cuộc mít-tinh của các ông các bà công chức đang diễn tiến thì bỗng nhiên một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn được thả từ bao lơn của nhà hát xuống, rồi một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Thế là cuộc biểu tình của Tổng Đoàn Công Chức bỗng nhiên biến thành cuộc biểu tình của Mặt Trận Việt Minh.
Hai ngày sau, tức là 19 tháng 8, Việt Minh đích thân đứng ra tổ chức một cuộc mít-tinh khổng lồ, cũng ở trước nhà hát Lớn Hà Nội. Sau đó, đoàn người biểu tình kéo đến bao vây Bắc Bộ Phủ. Ông Khâm Sai Phan Kế Toại đầu hàng ngay.
Coi như cướp được quyền hành chánh rồi, đoàn người kéo luôn qua trại Khố Xanh ở đường Đồng Khánh để cướp quyền quân sự. Một ngàn lính Bảo An ở trong trại không kháng cự, cờ quẻ Ly được hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên.”
Luật sư Trần Lâm năm đó hơn 19 tuổi, kể lại trong cuộc trao đổi với Biên Tập Viên Trà Mi của Ban Việt Ngữ như sau:
“19 tháng 8 là tôi đang học trung học, thì tôi thôi học. Thế mà tôi ở Hà Nội tôi không - chưa làm việc gì cả, mà tôi cũng có tham gia vào cái chỗ Việt Minh, nhưng mà cái mức độ đến ngày 19 tháng 8 tôi tham gia chỉ là cảm tình thôi. Và tôi được đọc sách báo của Việt Minh chứ tôi chưa tham gia một đoàn thể cụ thể nào.
Hôm Cách Mạng Tháng Tám thì trước ngày CMTT thì có cướp cái Bắc Bộ Phủ. Trước một hai ngày định cướp cái Bắc Bộ Phủ thì hôm cướp cái Bắc Bộ Phủ thì tôi có tham gia. Tôi vẫn còn cái ảnh của tôi (lúc đó) tôi đứng sát cái bờ rào.
Còn cảm nghĩ của tôi thì thưa cô, lúc bấy giờ mình cũng khó nói lắm vì lúc bấy giờ mình mười chín hai mươi tuổi nên học hành cũng vừa phải thôi, rồi là cũng không hiểu biết gì lắm ạ, thế cho nên thấy rằng nó vui mừng là một, với hai nữa là nó mới lạ, và nói tóm lại chữ "độc lập" lúc bấy giờ nó đặc biệt lắm, thì nó như người say ấy cô ạ.
Trong những ngày đó như là cái người mê say, bị choáng ấy mà, bị say, nhưng nói về ý thức thì chưa có gì rõ ràng lắm. Mười chín hai mươi tuổi cũng còn ngây thơ lắm, còn ngố lắm, cho nên bấy giờ ý thức về chính trị cũng chưa có, chỉ thấy rằng là hình như có cái gì mới lạ, hình như có một cái gì tháo củi sổ lồng, thế thôi, chỉ đến mức ấy thôi.
Mà nó lại còn có một cái đặc biệt nữa là lúc bấy giờ nó rầm rộ lắm, mình thì không bước vào cái rầm rộ ấy, chẳng hạn như là đi biểu tình rồi đi làm những cái này, rồi tất cả  mọi việc nó vui mừng tột độ và thấy cái mới tột độ và thấy như mình có cái sự thay đổi gì đặc biệt nữa.”


Nhà báo Bùi Tín
Chúng tôi cũng hỏi nhà báo Bùi Tín, năm đó ngoài 20, về không khí của những ngày ấy, ông kể lại:
“Trước ngày 19 tháng 8 là có cuộc mít-tinh của viên chức của Bắc Bộ (Phủ) là ngày 17 tháng 8, thì trong cuộc mít-tinh đó thì đại biểu của Việt Minh đã tung kênh nhau lên và đưa ra lá cờ đỏ sao vàng rồi chạy vòng quanh cái quảng trường của Nhà Hát Lớn.
Thế mà trong cái ngày 19 tháng 8 thì cái mà tôi có ấn tượng sâu sắc nhất là suốt từ 3 giờ chiều cho đến nửa đêm là chỉ có một khẩu hiệu là "Ủng hộ Việt Minh! - Ủng hộ Việt Minh! - Ủng hộ Việt Minh!", cứ như thế mà ầm cả lên ở Hà Nội, nhắc đi nhắc lại miết làm tôi nhớ mãi cái âm thanh đó.”



Nỗi ngậm ngùi của một thế hệ



Nhạc sĩ Tô Hải

Ngày nay, sau 64 năm với không biết bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, nhìn lại tuổi thanh xuân với bầu máu nóng và lòng yêu nứơc nồng nàn của những ngày Cách Mạng Tháng Tám, nhạc sĩ Tô Hải không khỏi ngậm ngùi cho ông cũng như cho những bạn đồng trang lứa:
“Cho nên là tôi buồn về cái thân phận của tôi nó như thế cho nên cũng như trong  HỒI KÝ (AUDIO BOOK) Hồi Ký tôi viết toàn là sự thật về những chuyện đó, bao nhiêu bạn bè tôi chết oan, tôi dùng cái chữ "mất xác", gọi là đi vào cái rừng chính trị mà là hai bàn tay hoàn toàn trắng, cho nên lạc ở trong cái rừng đó.
Mình đi tham gia chính trị mà mình có biết làm chính trị đâu, cho nên  vừa hôm trước cầm cờ vàng thì hôm sau cầm cờ đỏ mà thấy trong lòng chả thấy cái gì cả, ngây thơ đến tội nghiệp như thế!”  Tô Hải BlogSpothttp://to-hai.blogspot.com/  Multiply  http://tohai01.multiply.com/

Luật sư Trần Lâm cũng nhớ lại:
“Bây giờ mình nhiều tuổi rồi, thế rồi lại gặp bao nhiêu câu chuyện cái thì vừa ý cái thì không vừa ý, rồi những mục tiêu của Cách Mạng Tháng Tám nói thế thì nói chứ đến ngày hôm nay mà nhìn lại nó cũng được chỗ nọ chỗ kia, nhưng mà nói thực thì nó như cái áo vá cô ạ, nó cũng không được hoàn chỉnh lắm.
Thế cho nên (tôi) cũng cảm thấy bây giờ, phải nói cái cảm tưởng bây giờ, nhớ lại thấy rằng cũng buồn buồn.”
Nhà báo Bùi Tín thì tâm sự rằng nhớ lại ngày 19 tháng 8 sáu mươi tư năm trứơc, ông vừa thấy vui mừng, lại vừa có niềm cay đắng. Ông vui vì nhớ đến không khí hừng hực lửa của lòng yêu nứơc rộn ràng trong trái tim thanh xuân, nhưng ông cay đắng bởi vì:
“Cho nên tôi cay đắng là gì? Là cả cái lòng yêu nước mênh mông mạnh mẽ của tuổi thanh xuân chúng tôi lúc bấy giờ đã bị lợi dụng để đảng cộng sản cướp chính quyền cho riêng mình, chứ không phải là cướp chính quyền vì độc lập dân tộc và vì tự do của người công dân.
Cho nên đến bây giờ, cái cay đắng đến bây giờ tất cả 84 triệu người công dân vẫn không có tự do cá nhân.”
Đó chắc cũng là tâm sự của không ít những người vừa độ tuổi đôi mươi khi cuộc cách mạng mùa thu diễn ra sáu mươi tư năm trước.
Câu Chuyện Hàng Tuần kỳ này dừng lại ở đây. Nguyễn An kính chào quý thính giả.




Chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945
15/ 4 năm nay đánh dấu 61 năm kỷ niệm ngày thành lập chính phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam sau hơn 8 thập niên bị thực dân Pháp đô hộ. Tuy chỉ nắm quyền trong một thời gian ngắn và cũng chưa hoàn toàn có được chủ quyền, nhưng chính phủ Trần Trọng Kim được đánh giá là đóng góp một phần không nhỏ trong tiến trình dành lại độc lập cho Việt Nam.

Đến nay, những thành tựu của chính phủ này bị lu mờ bởi các sự kiện xảy ra sau đó, bắt đầu bằng cuộc Cách mạng tháng 8 và chính quyền Hồ Chí Minh, rồi đến cuộc chiến Việt-Pháp và cuộc nội chiến Nam-Bắc kéo dài cho đến năm 1975 mới chấm dứt.

Mời quý vị cùng Trà Mi tìm hiểu thêm về sự kiện lịch sử ít được biết đến này, qua cuộc trao đổi với tiến sĩ kinh tế-sử Lê Mạnh Hùng. Trước tiên, ông cho biết về những nguyên nhân dẫn đến việc thành lập chính phủ Trần Trọng Kim vào giữa tháng tư năm 1945.

Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng: Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập sau khi Nhật Bản lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp tại Đông Dương vào ngày 9 tháng 3, 1945 và tuyên bố trả độc lập cho Việt Nam. Nhưng vì độc lâp mà Nhật gọi là trao trả cho Việt Nam rất là giới hạn thành ra việc thành lập chính phủ cũng bị rất nhiều trở ngại.

Phải mất trên một tháng từ khi ông Bảo Đại ra tuyên ngôn tuyên bố độc lập vào ngày 11 tháng 3 cho đến ngày 15 tháng tư mới thành lập được chính phủ. Đó là vì Nhật không chịu bất kỳ những nhà chính trị nào dù là thân Nhật mà họ cho rằng có thể có những ước vọng độc lập nhiều hơn là Nhật dành cho.

Thành ra chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập bao gồm phần lớn là những nhà trí thức, chuyên môn mà trước đó không nằm trong các đảng phái cách mạng chống Pháp. Nói theo ngôn từ hiện nay thì chúng ta có thể nói đây là một chính phủ của những chuyên gia. Nhưng không phải vì trước đó họ không hoạt động chính trị mà họ không ái quốc. Và dù rằng chỉ kéo dài được có bốn tháng chính phủ Trần Trọng Kim cũng đã làm được một số công chuyện đặt cơ sở cho một nước Việt Nam độc lập về sau này.

Những thành công

Trà Mi: Thế chính phủ Trần Trọng Kim đã làm được những chuyện gì?

Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng: Với an ninh, quốc phòng và kinh tế tài chánh đều nằm trong tay quân đội Nhật, tất cả những gì mà chính phủ Trần Trọng Kim có thể đạt được trong việc dành lại chủ quyền cho Việt Nam thực tế là chỉ có tính cách biểu tượng. Nhưng trong tình huống Đông Dương vào năm chót của thế chiến thứ hai, biểu tượng đóng một vai trò rất quan trọng.

Biết rằng thất bại của Nhật Bản chỉ là một vấn đề thời gian, Trần Trọng Kim và chính phủ của ông đưa ra một chương trình nhằm thay đổi tâm lý người Việt đến mức mà đất nước sẽ không thể trở lại tình trạng thuộc địa nữa một khi chiến tranh chấm dứt, như lời nói sau đây của ông Hoàng Xuân Hãn khi kể lại mục tiêu của cụ Kim khi thành lập cũng như là của ông khi tham gia chính phủ “Chúng tôi muốn đặt trước Đồng Minh khi chiến tranh chấm dứt với một nước Việt Nam độc lập trên thực tế để chúng ta không thể nào trở lại tình trạng cũ là một thuộc địa của Pháp nữa”.

Theo ông Hãn, để đạt được mục tiêu này, họ đề ra ba nhiệm vụ chính. Thứ nhất thương thuyết với Nhật để chuyển nhưọng quyền chính trị và kinh tế về cho Việt Nam cũng như là thống nhất đất nước bị Pháp chia thành ba phần bằng cách đưa Nam Ky và các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Tourane trở lại dưới sự cai trị của triều đình Huế.

Thứ hai, Việt Nam hóa cơ cấu hành chán thuộc địa của Pháp bằng cách thay thế các quan chức và chuyên viên Pháp, Nhật với người Việt. Và thứ ba tạo ra trong quần chúng một tinh thần quốc gia mới, một niềm ái quốc mới qua một hệ thống giáo dục hoàn tòan dùng tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dậy. Theo ông Hoàng Xuân Hãn, họ hy vọng rằng sẽ có được từ một năm đến 18 tháng để thực hiện chương trình này.

Các tiến trình

Trà Mi: Ông có thể cho biết một cách cụ thể hơn về những gì chính phủ Trần Trọng Kim đã làm để đạt được ba mục tiêu đó không?

Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng: Một trong những quyết định đầu tiên của chính phủ Trần Trọng Kim là chính thức đổi quốc hiệu của Việt Nam trở lại thành Việt Nam. Đây là một quyết định có ý nghĩa quan trọng. Việt Nam là tên được Gia Long lựa cho khi thống nhất đất nước (dưới thời Minh Mạng đổi tên là Đại Nam) và sau này trở thành biểu tượng của cuộc đấu tranh dành độc lập khi các nhà cách mạng Việt Nam từ Phan Bội Châu cho đến Nguyễn Thái Học chọn cái tên Việt Nam trong các đảng của họ.

Cùng với quốc hiệu, chính phủ Trần Trọng Kim cũng chọn lá cờ là cờ quẻ ly: nền vàng, ba sọc đỏ với sọc đỏ ở giữa bị đứt đoạn (Lá cờ này sau trở thành lá cờ của Việt Nam Cộng Hòa nhưng với sọc đỏ ở giữa được nối liền lại).

Các cuộc thương thuyết đề thâu hồi Nam Kỳ, Bắc Kỳ và ba thành phố nhượng cho Pháp được tiến hành ngay sau khi chính phủ được thành lập. Bắc Kỳ được trao trả lại cho triều đình Huế vào ngày 27 tháng 4. Ngày 2 tháng 5, tổng đốc Thái Bình Phan Kế Toại được bổ nhiệm làm Khâm Sai Bắc Kỳ, tuy rằng phải đến tháng 6, 1945, chức Khâm Sai này mới được đặt trực tiếp dưới quyền triều đình Huế thay vì dưới quyền viên thống sứ Bắc Kỳ như dưới thời Pháp. “Thống sứ” Bắc Kỳ người Nhật nay đổi tước hiệu là “cố vấn tối cao”.

Ngày 11 tháng 6, 1945, tướng Nhật Tsuchihashi tư lệnh đạo quân chiếm đóng của Nhật tại Đông Dương và được Nhật phong làm toàn quyền Đông Dương gặp Bảo Đại tại Huế để thảo luận về việc trả lại Nam Kỳ, Hà Nội, Hải Phòng và Tourane cho Việt Nam. Ngày 16 tháng 6, 1945 Bảo Đại ra một tuyên bố về việc thống nhất tương lai của ba kỳ.

Sang tháng bảy, Nhật Bản chuyển sang cho chính phủ Việt Nam mọi cơ sở trực thuộc trước đây dưới chính quyền liên bang của Pháp. Hà Nội, Hải Phòng và Tourane được trả về cho triều đình Huế vào tháng bảy sau khi Trần Trọng Kim gặp Tsuchihashi vào ngày 13. Trần văn Lai được bổ nhiệm làm thị trưởng Hà Nội, Vũ Trọng Khanh thị trưởng Hải Phòng và Nguyễn Khoa Phong thị trưởng Tourane. NamKỳ chỉ được trả về cho triều đình Huế vào ngày 14 tháng 8 với Nguyễn văn Sâm được bổ nhiệm làm Khâm Sai Nam Kỳ.

Việc Việt Nam hóa guồng máy hành chánh thuộc địa chỉ thành công một phần. Bởi vì cả Nhật lẫn chính phủ Trần Trọng Kim đều không muốn thấy có những thay đổi quá lớn trong guồng máy hành chánh có thể làm trở ngại đến việc điều hành, thành ra bộ máy hành chánh thuộc địa của Pháp để lại hầu như còn nguyên.

Lúc ban đầu hầu hết những viên chức người Pháp cũng vẫn còn giữ nguyên các chức vụ cũ ngoại trừ những viên chức cao cấp hoặc những viên chức nào liên quan đến các ngành an ninh hoặc chính trị. Chỉ đến cuối tháng sáu những người Pháp này, ngoại trừ những chuyên viên tại những ngành thuần túy kỹ thuật mới bị cho nghỉ. Nhưng vì thiếu những người Việt có đủ khả năng thay thế cho nên việc thay đổi này đã ảnh hưởng mạnh đến hiệu năng của guồng máy hành chánh.

Việc dùng tiếng Việt thay cho tiếng Pháp trong hành chánh thành công hơn. Tuy rằng các liên lạc với Nhật vẫn còn phải dùng tiếng Pháp và những văn kiện quan trọng vẫn phải dịch sang tiếng Pháp cho người Nhật, nhưng kể từ 22 tháng 5, 1945 hầu như tất cả mọi văn kiện của chính phủ đều dùng tiếng Việt ngoại trừ trong lãnh vực y tế và trong văn thư liên lạc với các công ty Trung Hoa và Pháp. Việc dùng tiếng Việt trong các văn kiện chính thức cũng phù hợp với mục tiêu thứ ba của chính phủ Trần Trọng Kinh tức là tạo ra một tinh thần quốc gia mới.

Với mục đích này, chính quyền đặt nặng tới việc cải tổ giáo dục. Một chương trình trung học mới, dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ thay cho tiếng Pháp được Hoàng Xuân Hãn soạn thảo và áp dụng ngay trong niên học 1945-46 tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Chương trình này sau trở thành cơ sở cho chương trình trung học tại Việt Nam, cả miền bắc lẫn miền nam, trong nhiều năm sau này.

Chương trình mới này nhấn mạnh tới lịch sử Việt Nam, đặc biệt là các cuộc kháng chiến bảo vệ hoặc dành lại độc lập cũng như là những thành công của dân tộc trên phương diện văn học và nghệ thuật. Một cuốn từ điển danh từ kỹ thuật do Hoàng Xuân Hãn và một số người khác soạn cho chương trình học mới này đã còn được sử dụng cho đến 1975 tại miền Nam Việt Nam.

Các biện pháp khác bao gồm việc đặt lại tên các đường phố theo các danh nhân Việt Nam và hủy bỏ những pho tượng các quan chức thuộc địa Pháp. Các nhà văn cũng như các nhà nghiên cứu được khuyến khích tìm hiểu lịch sử những cuộc đấu tranh chống Pháp và viết lại về cuộc đời những người như Nguyễn Thái Học.

Chính quyền cũng khuyến khích việc thành lập các hội đoàn. Công chức được tổ chức thành một tổng hội, Tổng Hội Công Chức, với hy vọng rằng biến họ thành một lực lượng chính trị ủng hộ cho chính phủ. Nhưng vừa thiếu kinh nghiệm vừa vừa e ngại không muốn vượt ra ngoài vai trò kỹ thuật, hành chánh của mình những tổ chức quần chúng mà chính quyền khuyến khích thành lập cuối cùng đều rơi vào tay những lực lượng chính trị khác.

Những trở ngại

Trà Mi: Trong khi thực hiện những chương trình như vậy, chính phủ Trần Trọng Kim có gặp những trở ngại gì không?

Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng: Sự thiếu kinh nghiệm của chính phủ cũng như là tình trạng hỗn loạn tại nhiều nơi sau khi Nhật đảo chánh là trở ngại quan trọng nhất. Tại một số nơi, nhất là tại những huyện xa, các quan lại và công chức bỏ chạy về tỉnh sau khi đảo chánh khiến cho nhiều vùng, nhất là vùng quê không có ai kiểm soát.

Trong khi đó, chính quyền đã không nắm được tình hình chung cho nên có quá nhiều những quyết định được thảo ra và ban hành tại Huế, nhưng đã không được các địa phương áp dụng. Tuy nhiên, tại những nơi mà chính quyền có khả năng kiểm soát được, tức là tại những thành phố và thị trấn lớn ở miền bắc và miền trung, chính phủ Trần Trọng Kim cũng làm được một số cải cách. Một số quan lại tham những bị cách chức, có người bị đưa ra tòa. Với sự giúp đỡ của Nhật, tháng 6, 1945 một trường hành chánh được thành lập để huấn luyện công chức. Nhưng khóa đầu tiên của trường chưa tốt nghiệp thì chính phủ Trần Trọng Kim đã sụp đổ.

Nguyên nhân thất bại

Trà Mi: Xin ông cho biết vì sao chính phủ Trần Trọng Kim chỉ tồn tại đựơc trong 1 thời gian ngắn là 4 tháng?

Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng: Quan trọng nhất là do sự đầu hàng của Nhật. Vào cuối tháng 7 đầu tháng 8 nổi lên phong trào là người ta muốn thay thế bằng một chính phủ có tính cách chính trị hơn.

Đó là một trong những lý do khiến chính phủ Trần Trọng Kim phải từ chức vào ngày 7, 8 tháng 8 trong khi chờ đợi tổ chức 1 chính phủ mới. Thế nhưng sau đó xảy ra cuộc cách mạng tháng 8 Việt Minh cướp chính quyền, khiến cho việc tổ chức mới có tính cách chính trị và đấu tranh hơn bị thất bại.

Trà Mi: Chúng tôi xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Lê Mạnh Hùng đã dành thời gian cho buổi nói chuyện hôm nay.

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/TranTrongKimGovernmentIn1945_MHungTMi-20060415.html





7 GIÂY PHIM GIẢ NGỤY TẠO - HỒ CHÍ MINH ĐỌC TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
 
(7) giây cảnh phim Hồ Chí Minh đứng đọc Tuyên Ngôn Độc Lập LÀ PHIM GIẢ,NGỤY TẠO
Trong phim tài liệu "Hình ảnh về đời hoạt động của Hồ chủ tịch" năm 1960, có đoạn phim Hồ Chi Minh đọc Tuyên ngôn độc lập dài khoảng (7) bảy giây. Nhưng về sau vì sợ bị lộ tẩy nên Cộng Sản VN đã cắt ngắn;
Trong phim tài liệu " Hồ Chi Minh   chân dung một con người" năm 1990, đoạn phim  Hồ Chi Minh  đọc Tuyên ngôn độc lập đã bị cắt chỉ còn (1) một giây. Và PHÓNG LỚN Hồ Chí Minh để người xem không còn nhìn thấy trời mây, cây cối, đã có những chi tiết sơ hở , vô lý có thể bị người xem phát hiện .
Một (1) giây "PHIM" thì người xem chẳng còn kịp nhận rõ ra được cái gì nữa ! Nhưng vẫn có thể lừa được người xem

 Hãy so sánh các hình liên tiếp 
Chú ý có 3 phần: Khán đài ,micro, mây, cây, và Hồ Chí Minh .
- Khán đài đứng yên, mây và cây di chuyển nhanh hướng xuống và qua trái, micro cũng đi xuống và qua trái. (Chỉ trong 1 giây mà mây di chuyển rất nhanh, cái cây cũng cử động,micro cũng di chuyển )
- Khán đài đứng yên, mây và cây đi qua phải, micro cũng qua phải. (Trước đó mây bay qua trái, sau đó bay qua phải kéo theo cái cây cũng bay qua phải, micro cũng qua phải)
- Khán đài đứng yên, mây và cây đi lên, micro cũng đi lên. (Mây bay lên trời, cây và micro cũng lên trời)
- Khán đài đứng yên,mây và cây đi xuống, micro cũng đi xuống. (Mây rơi xuống đất, cây và micro cũng di chuyển xuống )
- (*) (7 seconds) Khán đài đứng yên không di chuyển

Vì 7 giây " phim" đây chính là cảnh CSVN đã cắt ghép từ nhiều hình:

Nhiều hình phông nền mây và cây, hình micro, và hình Ho Chi Minh với những tư thế khác nhau, sau đó dùng một (1) hình khán đài cố định không thay đổi ghép vào các hình rồi dựng lại thành đoạn phim.

LINK PHIM GỐC SO SÁNH
National anthem of Vietnam (instrumental)





Thursday, August 23, 2012

DI CƯ 1954 - Cuộc bỏ phiếu bằng chân lịch sử - Passage to Freedom







Để đánh dấu 58 năm, một chặng đường lịch sử đau thương, ngày Quốc Hận 20 tháng 7,1954. Ngày đất nước bị chia đôi hai miền Nam và Bắc do thực dân Pháp và tập đoàn cộng sản Hà nội khởi xướng.
Ngay khi Hiệp định Genève vừa được ký kết, ngày 22 tháng 7 -1954 Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và đồng bào treo cờ rũ toàn miền Nam để tang cuộc chia đôi đất nước, cùng ra bản tuyên cáo cực lực chống đối việc chia đôi Việt Nam, không chấp nhận cuộc chia đôi đất nước. 
(Chính phủ miền Nam và Hoa kỳ cùng phản đối và đã không ký vào hiệp định này)




TÔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM TUYÊN BỒ VỀ HIỆP ĐỊNH GENEVER








(The agreement was among Cambodia, the Democratic Republic of Vietnam, France, Laos, the People's Republic of China, the Soviet Union, and the United Kingdom. The State of Vietnam rejected the agreement. The United States took note and acknowledged that the agreement existed, but refused to sign the agreement, to avoid being legally bound to it.) 







Hệ quả chia cắt đất nước gây nên cảnh hàng trăm ngàn gia đình ly tán: Con mất cha, vợ phải xa chồng, anh chị em mỗi người một ngả... 
  
Để di chuyển hàng triệu người di cư từ miền Bắc vào miền Nam, người Pháp và chính quyền Việt nam quốc gia không thể nào cáng đáng nổi.Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã kêu gọi sự giúp đỡ của Tổng thống Mỹ; Eisenhower hưởng ứng lời kêu gọi đã ra lệnh cho đệ thất hạm đội Mỹ đến Việt Nam giúp đỡ việc chuyên chở người di cư qua (Operation Passage to Freedom)
Hơn một triệu đồng bào miền Bắc đã sử dụng mọi phương tiện để di cư vào Nam để tìm tự do sau khi miền Bắc bị đặt dưới sự kiểm soát của cộng sản Hà nội.


Nếu không bị sự ngăn chận và hăm dọa cùng , lừa gạt với nhiều hình thức của cộng sản miền Bắc thì con số người di cư có thể hơn gấp nhiều lần.
Những tin đồn mà các thủy thủ Mỹ thu lượm được qua những người di cư kể lại lúc lên tầu như do cộng sản Hà nội tung ra như: 

- Người Mỹ cắt tay của trẻ sơ sinh và quẳng đàn bà xuống biển, còn đàn ông thì bắt đi làm cao su cạo mủ tại các đồn điền cao su.
- Tầu há mồm ra đến biển thì há mồm ra, rồi xô đẩy người ta xuống biển. 
- Từng toán xe tải nhà binh tiến vào các làng để bốc hốt đi thật nhanh, kể cả dùng bạo lực cưỡng ép tất cả dân chúng. 

Bên cạnh những tuyên truyền làm lung lạc người tỵ nạn, cùng những áp lực đủ kiểu, qua lối tuyên truyền xảo trá, tạo ra một cơn hốt hoảng tinh thần nơi dân chúng công giáo,cộng sản Hà Nội còn dùng chiêu bài tôn giáo bằng cách nhờ cậy đến phái đoàn tôn giáo Ba Lan nhằm thuyết phục giới lãnh đạo Thiên Chúa giáo miền Bắc theo gương Ba Lan "sống đạo trong lòng thế giới cộng sản".
Những số liệu thống kê tạm thời lúc đó được Việt Nam Cộng chính thức công bố vào tháng 10 năm 1955, đồng bào di cư từ Bắc vào Nam bao gồm 676.348 người Công giáo (76,3 %), 209.132 Phật giáo (23.5 %), và 1041 Tin Lành (0,2 %). Các phân tích này đã không phân loại người di cư theo vùng cư trú trước đây ở miền bắc; tuy nhiên giáo hội đã cung cấp những ước tính về số giáo dân di cư vào Nam từ mười khu  vực các giáo xứ :
Hà Nội:50.000 giáo dân, Hải Phòng: 60.000, Vinh: 57.080, Bùi Chu:150.000, Hưng Hóa: 8.000,  Bắc Ninh:38.000, Phát Diệm: 80.000, Thanh Hóa: 18.500, Thái Bình: 80.000, Lạng Sơn: 2.500.
(Trong khi đó, số người xin di cư hay hồi cư từ Nam ra Bắc chỉ có 4358 người. Ở đây không kể khoảng 60000 cán bộ Việt Minh ở lại miền Nam, rút vào bí mật. )


Cuộc di cư 1954 mở ra cái dấu mốc lịch sử đánh dấu phân chia lằn ranh Quốc - Cộng. Miền Nam là Quốc Gia Tự Do, miền Bắc là Cộng Sản Độc tài. Cho nên, khi bước chân lên tàu vào Nam, người dân miền Bắc di cư nhận được một message rất rõ ràng: Passage to Freedom. Chính vì hai chữ TỰ DO đó, mà bỏ quê hương miền Bắc ra đi. Chết sống phải ra đi. Liều thân mà đi không cần biết tương lai sẽ ra sao? Nhưng chắc chắn ra đi sẽ tốt hơn là sống với cộng sản. 

Ý nghĩa đó cần được ghi khắc cho thế hệ mai sau để sau này, và không cho phép bất cứ ai tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng cuộc di cư lịch sử 1954:
 " CUỘC BỎ PHIẾU BẰNG CHÂN " lớn nhất của lịch sử Việt Nam và thế giới.


Bài nhạc “Xa Quê Hương” của Nhạc sỹ Ðan Thọ.Là một nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc hoài hương của âm nhạc Việt Nam.
Ðan Thọ là một trong những nhạc sĩ di cư từ miền Bắc vào Nam, như Thẩm Oánh, Phạm Duy, Vũ Thành, Hoàng Trọng, Phạm Ðình Chương, Văn Phụng, Nguyễn Hiền hay Nhật Bằng, Tuấn Khanh. 
Lúc ấy, bài “Tình Quê Hương” do ông phổ nhạc từ thơ Phan Lạc Tuyên đã làm mọi người rơi lệ. Thời ấy, những ca khúc của ông viết cùng Nhật Bằng, như “Bóng Quê Xưa” hay “Vọng Cố Ðô” càng làm nghẹn ngào nỗi nhớ quê.
Khi các nghệ sĩ di cư từ miền Bắc đã vui sống tại miền Nam tự do và viết về tình yêu hay chiến tranh, thì Ðan Thọ và Nguyễn Hiền vẫn có một chỗ đứng riêng trong loại tình ca êm đềm về quê hương đã khuất bên kia vĩ tuyến. Bài “Xa Quê Hương” được Ðan Thọ viết cùng Xuân Tiên trong thời kỳ này.Ông gắn bó với quê hương đến cùng, mãi tới 1985 mới đành gạt lệ ra đi, khi đã trên lục tuần.Cùng với Hoàng Trọng, Ðan Thọ xuất thân từ đất Nam Ðịnh vốn có nhiều tài năng về nghệ thuật và cùng chung một khuynh hướng lãng mạn. 
Ông tên thật là Ðan Ðình Thọ, sinh năm 1924, học chữ và học nhạc từ trường đạo Saint Thomas d'Aquin tại Nam Ðịnh rồi học đàn, hòa âm và sáng tác trước khi trở thành tay vĩ cầm trẻ trong phòng trà Thiên Thai của Hoàng Trọng tại Nam Ðịnh. 
Năm 1948, ông gia nhập ban Quân Nhạc Ðệ Tam Quân Khu Hà Nội, cùng với các tên tuổi khác như Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Nguyễn Cầu, Nhật Bằng, Nguyễn Khắc Cung. 
Trong thời gian này, ông học saxophone với quân nhạc trưởng Schmetzler, từ đó sở trường về cả violin lẫn saxophone tenor. 
Ðến năm 1954 ông theo ban quân nhạc di cư vào Nha Trang, rồi đặt chân vào Sài Gòn năm 1956. Tại đây, ông chơi nhạc trong đài phát thanh, truyền hình, phòng trà và còn là trưởng ban nhạc nhẹ của đài Quân Ðội. Những năm về sau, ông là một thành viên cột trụ của ban nhạc Shotguns của Ngọc Chánh.
Ngoài việc trình diễn, Ðan Thọ sáng tác nhiều trong thời gian ấy và được bạn bè quý mến vì cả tài năng lẫn tính tình hiền hòa, vui vẻ. 
Giới yêu nhạc thì nhớ Ðan Thọ với những bản tình ca nhẹ nhàng, những ca khúc nhớ về đất Bắc. 
Nhạc của ông tha thiết, lời của ông trong sáng và các ca khúc của ông đều toát lên vẻ đôn hậu của con người. 
Ông có nhân cách đáng kính của người nghệ sĩ không bị lụy vì âm thanh, ánh sáng hay bóng đèn mờ, dù là người kể truyện rất tếu.Ở ngoài đời là sự hòa nhã và chu đáo của ông.Nhạc sĩ đã có những đóng góp đáng kể trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam.Sau 10 năm khốn khổ dưới sự  thống trị của Việt cộng tại quê nhà, Cuối cùng vào năm 1985 nhạc sĩ Ðan Thọ đành phải giã từ quê hương lần nữa để sống đời tự do tại Hoa kỳ....
























  


















































































































Khu vực tạm cư của đồng bào miền Bắc di cư  
Sài Gòn ngày 7-10-1954.






































Tuyên bố của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà ngày 26/04/1958 về thắc mắc trong vấn đề tái thống nhất đất nước
Trong bức thư đề ngày 07/03/1958, được sử dụng với mục đích tuyên truyền – bởi vì văn bản được phát đi ngay lập tức bởi Đài phát thanh Hà Nội và Đài phát thanh Bắc Kinh – Nhà chức trách Hà Nội đưa đề nghị „thiết lập quan hệ bình thường“, đề nghị xem xét vấn đề tái thống nhất đất nước, hạn chế quân sự và giao thương giữa hai vùng.
Mặc dù đồng bào chúng tôi ở miền Nam và miền Trung Việt Nam đã được thông báo về tính chất lừa đảo của tuyền truyền cộng sản, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cũng phải có trách nhiệm giải thích cho đồng bào ở miền Bắc, những người đang bị cô lập với mọi thông tin xác thực và dư luận thế giới, các mâu thuẫn giữa tuyên bố và hành động của nhà chức trách Hà Nội cùng thực trạng bất lương về những cáo buộc của họ.
Vấn đề thống nhất đất nước và cuộc bầu cử chung
Xin nhớ rằng, Chính phủ chúng tôi đã luôn luôn bảo vệ sự thống nhất của đất nước. Trong Hội nghị Genève năm 1954, phái đoàn Việt Nam đã phản đối mạnh mẽ chống lại ý định của cộng sản Việt Nam. Phái đoàn chúng tôi đã chống việc chia ly tạm thời của đất nước. Chúng tôi đã đề xuất việc thu các đơn vị quân sự của cả hai bên vào một số khu vực hạn chế và sau đó tổ chức cuộc bầu cử tự do dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc. Phái đoàn Cộng sản đã bác bỏ đề nghị trên, họ đòi hỏi chia đất nước từ vĩ tuyến 17 nhằm đạt dân số trội hơn miền Nam. Sau cuộc trốn chạy của hơn một triệu người tị nạn về miền Nam, tại miền Bắc vẫn còn hơn 13 triệu người so với 11 triệu người dân sinh sống trong miền Nam.
Nhờ vào chế độ công an trị và quân đội lớn hơn so với Việt Nam Cộng Hoà, cộng sản tin rằng họ có thể ép dân chúng miền Bắc, dân số cao hơn, bỏ phiếu bầu cho họ ngõ hầu chế độ cộng sản có thể thống trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam và như thế, nền hoà bình trong vùng Đông Nam Á sẽ bị đe doạ.
Từ ý tưởng này người cộng sản đòi hỏi thực hiện một cuộc Phổ thông đầu phiếu tại Việt Nam, trong khi họ luôn từ chối các cuộc bầu cử tự do tại Đức và Đại Hàn, bởi vì trong hai quốc gia này dân số trong vùng họ kiểm soát ít hơn so với các khu vực tự do ; do đó họ không có cơ hội để thực hiện ý đồ đen tối của mình.
Thái độ mâu thuẫn của cộng sản về vấn đề thống nhất đất nước ở các quốc gia bị phân chia cho thấy động cơ thầm kín của họ nhằm thực hiện những cuộc bầu cử không tự do và không thành thật.
Mặc dù nhà chức trách Hà Nội đòi hỏi cuộc bầu cử chung, nhưng họ lại không tổ chức một cuộc bầu cử tự do trong vùng tạm kiểm soát của mình để canh tân cái gọi là Quốc Hội của họ. Quốc Hội này bao gồm một số thành viên được chỉ định và một số thành viên được bầu trong sự hỗn loạn của năm 1946, hiện nay phải đối mặt với thực tế là một số thành viên đã bỏ chạy về miền Nam. Theo quy định trong Hiến pháp của họ, một bản Hiến pháp được hoàn thành không có sự tranh luận, trong một phiên họp chỉ kéo dài có một ngày, thì nhiệm vụ những đại biểu của Quốc Hội này đã được chấm dứt từ hơn 8 năm nay rồi. Cộng sản Việt Nam do đó đã không tôn trọng hiến pháp của chính họ. Đồng thời họ đã thiết lập chế độ Cộng sản ở miền Bắc, mà không trưng cầu ý dân. Và họ không bao giờ trưng cầu dân ý vì họ biết rằng dân chúng sẽ không bao giờ chấp nhận cái chế độ này.
Chính phủ chúng tôi đã tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23/10/1955́, dựa theo đó chế độ cũ được bãi bỏ và chế độ Cộng Hoà đã được thành lập. Sau đó chính phủ chúng tôi đã tổ chức cuộc bầu cử Quốc Hội vào tháng 3 năm 1956 ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Quốc Hội này đã soạn thảo và thông qua một bản Hiến pháp. Hiến Pháp này đã được công bố sau đó.
Những tổ chức dân chủ và các tiến bộ mà chính phủ chúng tôi đã đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội, đã được cảm thông của cả thế giới. Đến ngày hôm nay đã có 56 quốc gia công nhận chính phủ chúng tôi, duy trì quan hệ ngoại giao với chúng tôi, hoặc đã đề nghị chúng tôi được gia nhập Liên Hiệp Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản ở miền Bắc chỉ được sự công nhận của khoảng 10 chính phủ cộng sản. Trong những năm gần đây, ảnh hưởng của Việt Nam Tự Do đã được tăng đáng kể : Nước chúng tôi hiện nay là thành viên của 33 tổ chức quốc tế và Sài Gòn được chọn là trụ sở của nhiều hội nghị quốc tế.
Do đó, rất kỳ lạ khi thấy những người có trách nhiệm phân chia đất nước, không dám tiến hành bầu cử trong vùng tạm kiểm soát của họ và sau đó lại đổ lỗi cho chính phủ chúng tôi từ chối thống nhất đất nước và từ chối bầu cử chung. 

Vấn đề về giao thông đi lại giữa liên khu vực tự do 

Nhà chức trách Hà Nội đã dấu không thông tin cho người dân miền Bắc biết, rằng người dân có quyền chọn lựa khu vực để sinh sống. Với chế độ khủng bố, họ đã ngăn cản các chuyến di tản của dân chúng miền Bắc ; họ đã dùng bạo lực bắt giữ thân nhân những người đã di cư về miền Nam. Tại Ba-Làng và Lưu-Mỹ họ đã nổ súng đàn áp những người đã cố gắng đi đến khu vực tự do.
Họ cũng đã rút ngắn thời gian cho tự do giao thông liên vùng và tự do lựa chọn vùng sinh sống, qua việc qui định thời hạn vào ngày 19 Tháng 5 năm 1955. Sau thời gian này, chính phủ chúng tôi đã đề nghị gia hạn thời gian giao thông liên vùng tự do. Nhưng nhà chức trách Hà Nội muốn huỷ bỏ càng nhanh càng tốt sự liên kết giữa hai khu vực, nhằm ngăn chặn các chuyến tỵ nạn về miền Nam và luôn bày tỏ ý đồ xấu xa này của họ. Do đó nhà chức trách Hà Nội đã chỉ gia hạn thời gian di tản thêm hai tháng, tức là đến ngày 20/07/1955, và trong hai tháng đó họ đã chỉ cung cấp một chiếc thuyền cho những người muốn về miền Nam.
Bất chấp mọi nỗ lực để ngăn cản việc di tản, bất chấp bị khủng bố và trù dập bằng bạo lực và cho dù thời hạn được di tản rất ngắn ngủi, nhưng gần một triệu đồng bào từ miền Bắc đã di cư về miền Nam thành công. Mặc dù đồng bào của chúng tôi ở phía bên kia vĩ tuyến 17 bị mất quyền tự do di chuyển ngay cả trong khu vực sinh sống của mình, ngày nay họ vẫn còn chạy trốn về miền Nam bằng cách vượt dẫy núi Trường Sơn[1], hoặc trong các chiếc thuyền mỏng manh dọc bờ biển. Một số người không may mắn bị rơi vào tay cộng sản và bị giết, hoặc đã bị tra tấn tàn nhẫn. Những người khác đã chết vì kiệt sức trong rừng sâu hoặc là nạn nhân của các cơn bão biển.
Hiện nay có 81123 người và 1955 gia đình đã tự, hoặc qua đại diện của họ, làm đơn yêu cầu được di tản vào miền Nam. Yêu cầu của họ đã được giao cho Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Nhưng nhà chức trách Hà Nội phản đối những yêu cầu này.
Ngoài ra, còn có một số gia đình từ miền Trung và miền Nam Việt Nam đã đòi hỏi cho anh em, chồng con họ, những người đã bị cộng sản dùng bạo lực bắt cóc đưa về miền Bắc, phải được hồi hương. Tổng số đơn yêu cầu về việc này là 11.196, đã được chuyển tiếp đến Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Ngoài các đơn kiện này, còn có rất nhiều trường hợp khác được gửi trực tiếp đến Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến, và số lượng đơn của những trường hợp này không bao giờ được công bố. Qua sự phản đối, chống lại những yêu cầu của người dân được nêu trên, nhà chức trách Hà Nội phải gánh trách nhiệm về tình trạng đau đớn vì chia ly của các gia đình này. Sau khi cộng sản cấm đoán người dân tự do đi lại ngay cả trong khu vực miền Bắc Việt Nam và ngăn chặn những người muốn di tản đi xa, bây giờ thì họ lại rêu rao, tuyên truyền là „tự do đi lại“ và „khôi phục lại mối quan hệ bình thường“.
Vấn đề cắt giảm lực lượng quân sự
Từ 3 năm qua nhà chức trách Hà Nội luôn luôn cổ võ cho hoà bình. Nhưng hành động của họ luôn tương phản lớn với chủ đề tuyên truyền của họ.
Họ đã không dừng lại mà luôn tăng cường lực lượng quân sự và nâng cấp trang bị vũ khí kể từ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực và như vậy là vi phạm Hiệp định Genève do chính họ đã ký kết.
Cần quan tâm đến một giác thư của chính phủ Vương quốc Anh gửi cho Liên Xô ngày 09/04/1956. Là đồng chủ tịch của Hội nghị Genève, chính phủ Anh đã cáo buộc nhà cầm quyền Hà Nội, kể từ khi ngừng chiến đến nay họ đã tăng cường lực lượng quân sự từ 7 lên 20 sư đoàn.
Ngoại trưởng Pháp tháng 3 năm 1958 cho biết, rằng nhà chức trách Hà Nội đã gia tăng quân đội lên đến 350000 quân và công an, cảnh sát lên tới 200000 người.
Họ cũng đã nhập cảng vũ khí từ các nước cộng sản để tăng cường lực lượng quân sự của họ. Trong ba năm qua họ đã không tôn trọng Hiệp định Genève, bởi vì họ chưa bao giờ thông báo cho Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến về việc nhập cảng vũ khí vào Việt Nam.
Mâu thuẫn với thực tế, nhà chức trách Hà Nội tuyên bố rằng họ đã giảm lực lượng quân sự của họ xuống còn 80000 người. Nhưng cho đến nay họ chưa bao giờ nói bất cứ điều gì về con số thực sự quân đội của họ, trước khi hoặc sau khi cái họ gọi là giảm quân. Họ không đưa ra bằng chứng về những lời tuyên bố của mình và không chấp nhận mọi cuộc điều tra.
Họ không có lý do duy trì một quân đội mạnh mẽ hơn Việt Nam Cộng Hoà. Đây là mối đe doạ cho nền hoà bình không những chỉ cho Việt Nam mà còn cho các nước ở trong vùng Đông Nam Á. Để có khả năng duy trì một quân đội to lớn như vậy, nhà chức trách BắcViệt áp đặt mức thuế cao và hệ thống „đấu tố“, với hệ thống này họ đã ép buộc những người vợ, những người con phải tố cáo cha mẹ và chồng mình đã „dấu vàng của nhân dân“. Những người này thậm chí đã phải tự đánh mình và cuối cùng họ bị xử tử ngay tai chỗ mà không thông qua một cuộc xét xử của toà án. Có thể nói rằng dân tộc chúng tôi phải chịu nhiều đau khổ với nhà cầm quyền miền Bắc hơn bất kỳ dân tộc nào khác trên thế giới này.
Ngược lại, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã luôn luôn phục vụ cho nền hoà bình kể từ hiệp định Genève. Để đảm bảo lực lượng lao động cần thiết cho việc tái thiết đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh, chúng tôi đã giảm quân đội từ 242000 xuống còn 150000, đồng thời chúng tôi đã không bổ xung thay thế 180000 binh lính của „Đội quân Viễn chinh“ Pháp. Cộng sản mong muốn duy trì Đội quân này lại ở Việt Nam. Vấn đề giảm lực lượng quân sự được phổ biến rộng rãi, điều này rất dễ kiểm chứng.
Nhân đây cũng xin nhắc lại lời tuyên bố long trọng của Chính phủ Quốc gia vào ngày 6 Tháng 4 năm 1956 là không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào và không cho phép cài đặt căn cứ quân sự ngoại quốc trên lãnh thổ của mình.
Vấn đề trao đổi thương mại
Trong thư đề ngày 07/03 nhà chức trách Hà Nội đã đề xuất việc trao đổi thương mại với miền Nam. Qua đánh giá đề nghị này và qua tin tức nhận được cho thấy rằng đồng bào miền Bắc mong muốn, cầu xin sự giúp đỡ của thân nhân hoặc bạn bè ở miền Nam, có thể một vài mét vải hoặc vài viên thuốc aspirin. Nền kinh tế miền Bắc do sự thống trị của Đảng Cộng sản đang ở dưới đáy vực sâu. Đề nghị của cộng sản không nhằm mục đích nâng cao đời sống của dân chúng miền Bắc. Do hệ thống độc quyền với chính sách nội thương và ngoại thương mà họ đã đề ra là mua sản phẩm nông nghiệp của dân chúng với giá rẻ mạt và bán lại những sản phẩm này với giá cao hơn đáng kể. Mục tiêu của họ chỉ là, thu thập sự phong phú của miền Nam vào ngân sách đảng của họ. Nếu nhà chức trách miền Bắc muốn đề nghị của họ được duyệt xét thì điều kiện đầu tiên là họ phải đặt quyền lợi người dân lên trên lợi ích của đảng. Đồng thời họ phải để cho dân chúng miền Bắc toàn quyền tự do thương mại và từ bỏ sự độc quyền kinh tế mà đảng cộng sản đã chiếm đoạt từ trước đến giờ. 

Vấn đề trao đổi thư từ và bưu thiếp
Mặc dù cộng sản không đề cập đến đề tài này trong thư của họ đề ngày 7 tháng ba năm 58, nhưng họ đã nhiều lần đề nghị nối lại dịch vụ bưu chính giữa hai khu vực. Cho đến hôm nay, cộng sản đã sử dụng các bưu thiếp như một phương tiện tuyên truyền nhiều hơn so với những phong thư được đóng kín. Yêu cầu trao đổi thư từ của họ không ngoài mục đích nào khác là tăng cường chiến dịch đe doạ và ăn xin người dân miền Nam. Vì quyền lợi của dân chúng, Chính phủ Quốc gia không thể thực hiện đề nghị này, nhưng Chính phủ yêu cầu cộng sản khai triển trao đổi bưu thiếp một cách đơn giản để nhân dân của hai Miền có thể liên lạc được với nhau.
Sự thật được mô tả trên đây cho thấy bản chất lừa đảo của các đề nghị của cộng sản, chẳng hạn như tăng cường củng cố lực lượng quân sự của mình, lệnh cấm di chuyển giữa hai khu vực, các vụ giết người muốn di tản về miền Nam, họ đã gây ra những trở ngại để các thân nhân của các gia đình sống tản mác không tìm được nhau và lợi dụng việc trao đổi bưu thiếp nhằm vào mục đích tuyên truyền.
Mâu thuẫn giữa tuyên truyền và hành động của nhà chức trách Hà Nội thật đã rõ ràng. Từ nhiều năm qua thái độ của họ vẫn luôn như một. Để chứng minh thái độ của họ đã thay đổi, họ hãy thực hiện một số hành động cụ thể như sau :
1. Họ hãy để cho 92319 người và 1955 gia đình thực hiện ý nguyện của mình là được di cư về miền Nam, đơn của những người và gia đình này đã nộp cho Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến, để những người này được đoàn tụ với gia đình của họ. 
2. Họ nên giảm lực lượng quân sự của họ tương đương với miền Nam Việt Nam. Việc giảm bớt phải được xác nhận là đúng bởi một Uỷ Ban quốc tế hữu trách. Sau đó vấn đề giới hạn lực lượng quân đội của hai vùng mới được bàn thảo. 
3. Họ cần phải xoá bỏ cái gọi là « Uỷ Ban Giải phóng miền Nam », bằng cách từ bỏ khủng bố, giết dân cư của những làng mạc xa xôi hẻo lánh, phá hoại cơ sở Chính phủ nhằm cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt trong lĩnh vực cải cách ruộng đất và nông nghiệp. 
4. Họ phải từ bỏ sự độc quyền kinh tế của đảng Cộng sản, để nhân dân miền Bắc Việt Nam được làm việc trong hoàn toàn tự do và qua đó, có thể tăng mức sống của họ hiện đã bị giảm xuống đến mức chưa từng có từ xưa đến nay. 
5. Họ không được buộc dân chúng phải cất tiếng ca ngợi họ [2] trong các bưu thiếp. Họ nên giải tán ban biên tập công tác tuyên truyền phục vụ bưu thiếp. Họ không được trả thù những người nhận hoặc gửi bưu thiếp. 

6. Họ phải tôn trọng các quyền tự do dân chủ trong khu vực của họ như ở miền Nam và nâng cao mức sống của dân chúng miền Bắc, ít nhất được tương đương với dân chúng miền Nam ; họ không được dùng chế độ vô nhân đạo của họ để làm cho khoảng cách giữa hai vùng lớn hơn nữa.
Nếu khảo sát các sự kiện kỹ càng, ta sẽ nhận thấy bức thư ngày 07/03/1958 của nhà chức trách Hà Nội có mục đích chủ yếu nhằm tuyên truyền và phá hoại, chống lại sự giúp đỡ của các quốc gia bạn. Cộng sản đã hành động theo đơn đặt hàng của Liên Xô và cộng sản TC, trong lá thư trên đã chỉ trích gay gắt Mỹ và cáo buộc người Mỹ can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam.
Thực tế hoàn toàn ngược lại với những cáo buộc của cộng sản : mối quan hệ Việt-Mỹ hoàn toàn bình đẳng dựa trên luật pháp quốc tế giữa hai nước, cùng tôn trọng chủ quyền của nhau. Tương tự sự liên kết giữa Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà và các nước trong thế giới Tự do. Mục đích mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chỉ nhằm bảo đảm nền hoà bình và tự do.
Mối quan hệ giữa nhà chức trách Hà Nội cùng giới thống trị Nga và TC, thuộc một thể loại khác. Họ là một vệ tinh đối với giới cai trị. Họ là hạ cấp so với thượng cấp trong hệ thống phân cấp của một đảng : đảng Cộng sản Quốc tế. Sự phụ thuộc này không chỉ được thể hiện qua sự đồng nhất của các tổ chức chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội theo kiểu mẫu của cộng sản Liên Xô và TC, mà sự lệ thuộc này còn thâm nhập ngay cả vào lĩnh vực tư tưởng : trong các nghị định và các quy định của họ nhà chức trách Hà Nội bắt buộc dân chúng miền Bắc phải học các hệ tư tưởng cộng sản và sống theo đường lối chính trị của Nga và TC.
Ở miền Nam, không ai bị bắt buộc phải tôn thờ các nhà lãnh đạo ngoại quốc và treo hình ảnh họ trong nhà, ở đây không ai có thể tưởng tượng rằng họ có thể hành xử điều kỳ lạ nêu trên.
Ở miền Bắc, nhà chức trách ép buộc dân chúng phải sùng bái các các nhà lãnh đạo Nga và TC, treo hình ảnh của họ ở nhà và trong những ngày lễ của Liên Xô. Đồng thời họ cấm đoán dân chúng không được phê bình ý thức hệ cộng sản, không được phê bình chính phủ và giới lãnh đạo các nước cộng sản.
Thái độ hèn hạ của nhà chức trách Hà Nội đối với cộng sản ngoại quốc đã huỷ hoại đời sống của dân tộc Việt, và là trở ngại lớn nhất cho công cuộc thống nhất đất nước.
Hệ tư tưởng cộng sản hoàn toàn phản nghịch với truyền thống tâm linh của châu Á và tính chất quốc gia của dân tộc Việt Nam.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc bầu cử tự do, nhà chức trách Hà Nội phải huỷ bỏ chế độ cộng sản mà họ đã áp đặt lên người dân miền Bắc.
Họ không nên nhắm mắt và tự bịt tai. Họ phải học hỏi để hiểu cho ra rằng, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà và Dân tộc Việt Nam không bao giờ chấp nhận cuộc bầu cử không có sự tự do và chân thành.



Sưu tầm và dịch từ văn bản tiếng Đức:                                                                                                                                 “Erklärung der Regierung der Republik Vietnam von 26. April 1958 über die Frage der Wiedervereinigung”                                                                                                                                                   do văn phòng ngoại giao VNCH tại CHLB Đức xuất bản năm 1958. 

[1] bản tiếng Đức ghi là dẫy núi An Nam 
[2] nguyên văn tiếng Đức là : Họ không được buộc dân chúng phải cất tiếng hát những bài ca tụng họ trong các bưu thiếp“






Trẻ em miền Bắc dưới chế dộ Cộng sản



Trẻ em miền Bắc Di Cư vào Nam .. 10 năm sau (1964)


Trẻ em miền Bắc ... 10 năm sau bị bắt trên đường mòn HCM (1964)



Miền Nam kỷ niện 10 năm Quốc Hận


Miền Nam kỷ niện 10 năm Quốc Hận










 



LINK XEM PHIM: CHÚNG TÔI MUỐN SỐNG
http://freevietnews.com/video/viewvideo.php?id=257