ĐỪNG NGHE NHỮNG GÌ VIỆT CỘNG NÓI, MÀ HÃY NHÌN KỸ NHỮNG GÌ VIỆT CỘNG LÀM - DO NOT LISTEN TO WHAT VIETCONG SAY, BUT WATCH CLOSELY AT WHAT THEY'VE DONE - "...Ending a conflict is not so simple, not just calling it off and comming home. Because the price for that kind of "peace" could be a thousand years of darkness for generation's Viet Nam borned." RONALD REAGAN "...Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ, cái giá phải trả cho loại "hòa bình" đó, là ngàn năm tăm tối cho các thế hệ sinh tại Viêt Nam về sau."

CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH


BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES
@@@@

Sunday, January 6, 2013

VÕ NGUYÊN GIÁP TÊN ĐỒ TỂ KHÁT MÁU CỦA QUÊ HƯƠNG - Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyền






VÕ NGUYÊN GIÁP TÊN ĐỒ TỂ KHÁT MÁU CỦA QUÊ HƯƠNG - Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyền 


Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyền là giáo sư về khoa Giải phẫu Tiểu Nhi tại đại học McGill, Montreal, Canada.       

Nhà văn quân đội nổi tiếng Phan Nhật Nam đã gọi Võ Nguyên Giáp là một thiên tài khốn nạn của quê hương. Tôi chia sẻ ý kiến của ông, nhưng chỉ chia sẻ một nửa thôi.

Võ Nguyên Giáp thực quả là một tên khốn kiếp, đã đẩy hàng triệu thanh niên đất Việt vào chỗ chết từ năm 1946 tới năm 1975, để thực hiện cho được việc áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản sắt máu trên toàn quê hương. Nhưng Y có là một thiên tài hay không, dù là một thiên tài khốn nạn của quê hương, thì cần phải xét lại. Sau mấy chục năm, các tài liệu về chiến tranh tại Việt Nam, các dữ kiện lịch sử đã được giải mật. “Huyền thoại Võ Nguyên Giáp” đã hết còn là một huyền thoại.

Võ Nguyên Giáp sanh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha Y là Võ Quang Nghiêm, một hương sư dạy chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ và hành nghề Đông Y như phần lớn các nhà nho lỡ vận. Khi cuộc chiến Việt-Pháp bùng nổ, Ông Nghiêm bị Pháp bắt đưa về giam ở Huế rồi chết trong tù. Mẹ Giáp là Bà Nguyễn Thị Kiên.

Võ Nguyên Giáp là con thứ 6 trong số 8 người con của Ông Bà Võ Quang Nghiêm. Năm 14 tuổi (1925), Giáp vào Huế học trường Quốc Học. Hai năm sau, bị đuổi học, Giáp về quê tham gia Tân Việt Cách mệnh Đảng – một đảng có mầu sắc Cộng Sản được thành lập năm 1924 ở miền Trung.

Đầu tháng 10 năm 1930, Giáp bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phú ( Huế ).. Năm 1931, Giáp được thả ra khỏi nhà tù, ra Hà Nội học tại trường Albert Sarraut cho tới khi đỗ Tú tài.

Năm 1937, Giáp tốt nghiệp trường Luật tại Hà Nội.

Năm 1934, Giáp kết hôn cùng Nguyễn Thị Quang Thái, một đồng chí của ông. Bà Thái có với Giáp một người con gái, Võ Thị Hồng Anh. Năm 1943, Bà Thái bị Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội. Bà chết trong tù.

Tháng 5 năm 1939, Giáp bắt đầu dạy môn Sử tại trường tư thục Thăng Long tại Hà Nội. Theo lời thuật của một số người, Giáp là một giáo sư Sử giỏi và hùng biện.

Từ năm 1936 đến năm 1939, Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân Chủ Đông Dương. Võ Nguyên Giáp vào Đông Dương Cộng Sản đảng vào năm 1940, bắt đầu các hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Giáp tham gia gây dựng cơ sở và huấn luyện quân sự ở Cao Bằng dù Giáp chưa từng được huấn luyện về quân sự.. Trong đảng Cộng Sản Đông Dương, có lẽ chỉ có Phùng Chí Kiên được theo học một thời gian tại trường Võ bị Hoàng Phố ở Trung Hoa.
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo sự phân bố của Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với 34 người. Theo tài liệu của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đó là khởi thủy của đạo quân Cộng Sản Việt Minh sau này.

Tháng 8 năm 1945, Giáp được bầu vào Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương.

Tháng 1 năm 1948, Giáp được Hồ Chí Minh phong quân hàm Đại Tướng. Cùng được phong Tướng có một số tên như Văn Tiến Dũng, Vương Thừa Vũ, Nguyễn Chí Thanh, Đinh Đức Thiện, Lê Trọng Tấn, Trần Đăng Ninh…
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ kéo dài cho tới năm 1954 và chấm dứt ở trận Điện Biên Phủ.


Trên :Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Quang Thuận, Hoàng Đăng Minh, Nhận, Bạch Ngọc Giáp, Sáng 
Dưới: Lê Liêm, Giáp, Hồ, Trường Chinh, Đặng Việt

Từ năm 1945 cho đến năm 1991(năm Giáp nghỉ hưu, hết còn là ủy Viên Trung Ương Đảng) Giáp đã giữ những chức vụ như sau:- Ủy Viên Bộ Chánh trị – Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng- Tổng Tư lệnh Quân Đội- Phó Thủ Tướng- Chủ Nhiệm Ủy Ban Khoa học nhà nước.- Năm 1983, Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch. Chức vụ Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội là những chức vụ Giáp ở lâu nhất, từ năm 1945 đến năm 1980.Chức vụ coi về sanh đẻ năm 1983 là môt hình thức hạ nhục Giáp do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ trương. Để nói về việc hạ nhục này, trong dân gian có truyền tụng hai câu thơ diễu cợt đượm đầy mỉa mai:

Ngày xưa Đại tướng cầm quân
Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em


Sau trận Điện Biên Phủ năm 1954, sự hiện diện của người Pháp cáo chung, Võ Nguyên Giáp nổi tiếng như cồn. Sau cái gọi là Đại thắng mùa xuân năm 1975 – một may mắn bất ngờ cho đảng Cộng Sản Việt Nam ( một bất hạnh cho dân tộc Việt ) chiếm được miền Nam – trước mắt người ngoại quốc mù tịt về cơ cấu tổ chức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Võ Nguyên Giáp trở thành một huyền thoại. Một số sách viết về Giáp như:
- General Giáp: Politician and Strategist của Robert j. O’Neil (Australia)- Giáp: the Victor in Vietnam của Thiếu tướng hồi hưu Peter McDonald In năm 1993 ( British ) – Các bài viết rải rác của Douglas Pike thuộc University of California, Berkeley (USA)
Xin mở một dấu ngoặc ở đây về các sách viết về các lãnh tụ Công Sản Việt Nam cũng như các lãnh tụ của các nước Cộng Sản khác trên thế giới. Tác giả phải được sự chấp nhận của Bộ Chính trị và chỉ được viết những gì mà cơ quan quyền lực tối cao của Cộng Sản đưa ra mà thôi.
Giáp được các tác giả ca tụng như một thiên tài quân sự, một chiến lược gia tài tình của thế giới ( genius strategist, geniusgeneral of the world ). Từ mấy năm gần đây, các tài liệu mật về 2 cuộc chiến tại Việt Nam (1946-1954 và 1954-1975 ) được giải mật khiến ta thấy rằng “thiên tài Võ Nguyên Giáp” đã được các đồng chí nặn ra như các đồng chí đã nặn ra anh hùng Lê Văn Tám, chú Kim Đồng…..trong suốt chiều dài của cuộc chiến xâm nhập của chủ nghĩa Cộng Sản man rợ lên quê hương mà đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là một lũ thừa sai.
Bản chất của những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, kể từ Hồ Chí Minh trở xuống, là gian hùng, dối trá, thâm độc và tàn bạo. Giáp có đầy đủ các “đức tính” đó.
Năm 1946, Hồ Chí Minh ký hòa ước với Pháp để quân Pháp trở lại Việt Nam. Các lãnh tụ Công Sản, trong đó có Giáp, đã thẳng tay tiêu diệt các người quốc gia (Losers are Pirates by James Banerian1984, p.69

Hồ Chí Minh, Trưòng Chinh, Võ Nguyên Giáp và Trung tá A. Peter Dewey.

Năm 1946, khi cuộc chiến tranh Việt – Pháp sắp xẩy ra, Giáp là Bộ Trưởng Quốc phòng trong Chánh phủ liên hiệp. Tại Hà Nội, trong khi quân Pháp và Tự Vệ Thành đang gầm ghè nhau, Giáp và đồng bọn hứa hẹn là quân chánh qui của họ tức các đơn vị Vệ Quốc Đoàn tinh nhuệ đã kéo về đóng chung quanh Hà Nội, sẵn sàng làm cỏ quân Pháp.
Ngày 19 tháng 12, chiến tranh bùng nổ tại Hà Nội. Nhóm lãnh đạo Cộng Sản đã rút về Hà Đông từ mấy ngày trước. Vệ Quốc Đoàn đâu chẳng thấy, chỉ thấy các Tự Vệ Thành đánh vùi với quân Pháp trong các đường phố Hà Nội. Họ đã cầm cự với quân Pháp trong gần 2 tháng, thời gian đủ để dân chúng rời thành phố lánh nạn, đủ để đám Cộng Sản rút vào các an toàn khu Việt Bắc. Giáp và đồng bọn muốn mượn tay quân Pháp để thủ tiêu các thanh niên Hà Nội. Quả thực, Tự Vệ Thành là những thanh niên tiểu tư sản, phần lớn xuất thân từ các gia đình khá giả. Đám tiểu tư sản này là những thành phần không có chỗ đứng trong chế độ Cộng Sản. Càng lợi cho việc thiết lập chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam nếu họ bị Pháp tiêu diệt, bớt đi càng nhiều càng tốt cho chủ nghĩa Mac Xít Léninist dễ phát triển ở Việt Nam.
Giáp đã viết sách về chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân (được dịch ra tiếng Pháp; Guerre du peuple, l’Armée du peuple ), tự cho rằng mình và đảng Cộng Sản Việt Nam là nguồn gốc của quan niệm chiến lược, chiến thuật này.
Sự thực, quan niệm về chiến tranh nhân dân đã được Tướng Trần Canh, một trong ngũ hổ tướng của Mao Trạch Đông, du nhập vào Việt Nam kể từ trận chiến biên giới Cao Bằng Lạng Sơn năm 1950.
Giáp thực sự không phải là cha đẻ của quân đội Cộng Sản Việt Nam, tuy rằng cuối năm 1944, theo lệnh Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đoàn Võ Trang tuyên truyền gồm 34 thành viên với trang bị rất thô sơ. Quân đội Trung Cộng mới thực sự là cha đẻ của quân đội nhân dân của Cộng Sản Việt Nam.
Tháng 3 năm 1946, 1 Trung Đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa tràn qua biên giới, vào Việt Nam để tránh bị các Lộ Quân 46, 64 của Tưởng Giới Thạch tiêu diệt. Chính Trung đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa này đã giúp Cộng Sản Việt Nam huấn luyện Quân đội. Tình báo của Mỹ đã đánh hơi thấy việc Trung Cộng huấn luyện quân đội Cộng sản Việt Nam từ những năm này.
Từ năm 1950, Trung Cộng không ngừng cung cấp người, võ khí và tiếp liệu cho Công Sản Việt Nam. Chính Võ Nguyên Giáp, trong cuốn Đường tới Điện Biên Phủ đã viết: Trong một buổi làm việc ở Moscou với Staline, Mao Trạch Đông, Mao đã hứa trang bị cho Việt Nam 10 sư đoàn. Mao nói: Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn (sư đoàn) để đánh Pháp. Trước mặt hãy trang bị 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc Việt Nam. Có thể đưa ngay một số đơn vị sang Trung Hoa nhận vũ khí. Tỉnh Quảng Tây sẽ lả hậu phương trực tiếp của Việt Nam. Sau đó các đơn vị của quân đội nhân dân lần lượt được đưa sang Tầu để thụ huấn và nhận vũ khí. Theo Giáp: những đơn vị sang Trung Quốc, ngoài việc trang bị lại vũ khí còn được huấn luyện thêm về chiến thuật công kiên, đặc biệt là kỹ thuật đánh bộc phá. Trước đây, vì chưa có thuốc nổ, ta chưa hề xử dũng kỹ thuật này.
Cũng theo Giáp, chính Hồ Chí Minh đã yêu cầu Tầu Cộng gửi qua Việt Nam một đoàn cố vấn. Theo lời yêu cầu đó, một đoàn cố vấn Trung Cộng khoảng 80 người đã sang Việt Nam, giúp quân Cộng Sản Việt Nam: Lã Quí Ba, Ủy Viên Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc, Trưởng đoàn Cố vấn; Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn về Quân sự: Mai Gia Sinh, cố vấn về công tác tham mưu; Mã Tây Phu, Cố vấn về công tác hậu cần. Chính các Cố vấn Trung Cộng đã giúp Công Sản Việt Nam tổ chức 3 (ba) cơ chế chánh trong quân đội: Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục chánh trị và Tổng cục hậu cần. Tóm lại ngay trong công việc tổ chức quân đội của Cộng Sản Việt Namm, Giáp chỉ là người thừa hành.


Giáp là một tên hèn.
Năm 1983, Giáp bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn hạ nhục bằng cách cho đi làm Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch. Giáp đã ngậm bồ hòn làm ngọt, ngoan ngoãn vâng lời. Trong vụ Nhân văn Giai phẩm xẩy ra tại miền Bắc năm 1955, nhiều người đã ở trong Quân Đội Nhân dân của Giáp như Trần Dần, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng Quán…bị đem ra đấu tố, tù đầy. Giáp vẫn giữ im lặng. Trong vụ án chống đảng do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ mưu, các tướng Cộng sản đàn em của Giáp như Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn Vịnh, các Đại tá thuộc cấp của Giáp như Lê Minh Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Văn Dzoãn… bị hãm hại; Giáp vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.. Khi các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái (cũng là thông gia của Giáp) bị đột tử sau khi miền Nam đã bị cộng sản hóa. Giáp vẫn ngậm miệng, im lặng là vàng. Giáp đã để lộ rõ cái hèn, thủ khẩu như bình.
Giáp kệ mặc đàn em bị thảm sát, tù đày. Theo Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên tập của báo Cộng Sản Quân Đội Nhân dân, sở dĩ Giáp không bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn thủ tiêu vì Giáp biết thủ nghĩa là Giáp biết cách tránh né để bảo toàn mạng sống.
Khi được một ký giả ngoại quốc hỏi Giáp có hối tiếc gì về số 3-4 triệu người Việt Nam chết vì các cuộc chiến tranh, gọi là chiến tranh ý thức hệ, Giáp đã trả lời là y không hối tiêc gì cả (Non, pas du tout).
Mạng sống của thanh niên Việt Nam bị họ Võ coi như cỏ rác. Giáp sẵn sàng thí quân trong các trận chiến. Trong trận chiến tranh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1950, để tiêu diệt cứ điểm Đồng Khê do 262 lính Pháp trấn đóng, Giáp đã dùng tới 10.000 quân (đông hơn quân trú phòng 40 lần). Sau trận đánh, hơn 500 quân Việt tử trận, không kể số bị thương hàng ngàn. Trong trận đồng bằng Phủ Lý, Ninh Bình, Vĩnh Yên vào tháng giêng năm 1951, chiến thuật biển người của Giáp đã bị Tướng Pháp De Lattre de Tassigny dùng bom Napalm tiêu diệt. Quân Cộng sản, dưới sự chỉ huy của Giáp, đã bị nhiều tử vong, thất bại trong ý đồ đưa chiến tranh về đồng bằng. Số tử vong của quânđội cộng sản, khi tháo lui, là trên 6000 người. Số bị thương chắc chắn là gấp đôi, gấp ba con số 6000.
Trong chiến tranh Việt – Pháp 1946-1954, người thực sự chỉ huy các trận đánh lớn không phải là Giáp mà là các tướng Trung Hoa Cộng Sản như Trần Canh trong những năm 50, sau đó là đoàn cố vấn Trung Quốc đứng đầu là Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba. Hào quang chiến thắng của Giáp chỉ là một giả tạo, một hào quang do Trung Cộng ban cho.

Chiến dịch biên giới năm 1950.
Chiến dịch này nhằm mục đích đuổi quân Pháp ra khỏi biên giới của 2 nước Việt Nam-Trung Hoa để cho việc tiếp vận từ Trung Hoa Cộng Sản cho quân đội của Cộng Sản Việt Nam được dễ dàng. Tướng Trần Canh của Trung quốc sang Việt Nam ngày 22-7-1950. Trần Canh đã áp dụng học thuyết chiến tranh nhân dân của Mao vào chiến tranh Việt Nam.
Kế hoạch tiến công của Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch biên giới được thay thế bằng kế hoạch tác chiến của Trần Canh. Thay vì tấn công Cao Bằng như kế hoạch của Giáp, Trần Canh đề nghị kế hoạch tấn công Đông Khê, một đồn của Pháp nằm giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, để lùa quân Pháp ra khỏi hai tỉnh trên và sau đó phục kích tiêu diệt (công đồn đả viện). Hồ Chí Minh chấp thuận kế hoạch này. Kết quả trận đánh là quân Pháp thảm bại phải bỏ hết các tỉnh biên giới. Chiến thuật công đồn đả viện của Cộng Sản Việt Nam là do các cố vấn Trung Quốc, nhứt là Trần Canh, truyền thụ cho.
Từ năm 1951, nhóm cố vấn chánh trị do Lã Quí Ba cầm đầu đã giúp Hồ tạo lập luật lệ và chánh sách liên quan đến tài chánh, thuế khóa, quản lý báo chí và đài phátthanh cũng như các chánh sách đối với các dân tộc thiểu số…..

Chiến dịch Tây Bắc 1952
Sau các tổn thất ở đồng bằng sông Hồng Hà năm 1951, Việt Minh, theo sự cố vấn của các cố vấn Trung Quốc, mở chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Lã Quí Ba trách nhiệm hoạch định chiến dịch thay Vi Quốc Thanh về Tầu chữa bệnh. Hồ Chí Minh chấp thuận hoàn toàn đề nghị của Lã Quí Ba. Theo Qiang Zhai (China and the Vietnam wars 1950-1975) cuối tháng 9 năm 1952, Hồ bí mật sang BắcKinh để thảo luận về chiến dịch Tây Bắc cũng như chiến lược thắng quân Pháp. Ngày 14-10 Việt Minh tập trung 8 tiểu đoàn tấn công Nghĩa Lộ và các đồn bót lân cận.Ngày 16-10 Vy Quốc Thanh trở lại Việt Nam để cùng Lã Quí Ba chỉ đạo chiến dịch. Sau khi mất Nghĩa Lộ, quân Pháp chạy khỏi Sơn La ngày 21-11. Việt Minh hoàn toàn chiếm lĩnh một khu vực lớn ở Tây Bắc, cho phép họ có thể tiến hành các hoạt động ở Lào.


Đối phó với kế hoạch Navarre – Trận Điện Biên Phủ
Tháng 5-1953, tướng Henri Navarre đảm trách chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương với kế hoạch: 1- Kiểm soát vùng đồng bằng sông Hồng2- Bình định các khu do Cộng Sản kiểm soát ở miền Trung và miền Nam3- Mở tổng phản kích tiêu diệt các cứ địa của Việt Minh tại miền Bắc
Navarre cho thành lập các binh đoàn lưu động.Việt Minh Cộng Sản, lúc đầu muốn tập trung quân tại vùng Tây Bắc và Lai Châu, nhưng sau Giáp từ bỏ ý định đó, muốn kéo quân tấn công quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng Hà. Như vậy Giáp hạ thấp tầm quan trọng của chiến dịch ở Lào. Bắc Kinh không đồng ý với kế hoạch của Giáp. Bắc Kinh nhấn mạnh Việt Minh cần giữ nguyên kế hoạch tập trung vào Tây Bắc và Lào. Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng nếu thực thi chiến thuật này, Việt Minh Cộng Sản có thể chuẩn bị lực lượng cho công cuộc đánh chiếm đồng bằng sông Hồng và cuối cùng sẽ đánh bại Pháp ở Đông Dương.
Tháng 9, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam, phủ quyết kế hoạch của Giáp để theo kế hoạch của các cố vấn Tầu.
Ngày 27 tháng 10 năm 1953, Vy Quốc Thanh trao cho ông Hồ một bản sao kế hoạch của Navarre mà tình báo Trung Cộng đã thu đoạt được. Sau khi xem xét, các lãnh đạo của Cộng sản Việt Nam nói đề nghị của Trung Quốc là đúng. Cộng Sản Việt Nam, nếu theo đúng kế hoạch của Trung Quốc, có thể phá vỡ kế hoạch của Navarre.
Khi Navarre đưa quân đến Điện Biên Phủ, Giáp và Bộ Tham mưu chưa nhận ra tầm quan trọng của vị trí này. Chính Vy Quốc Thanh là người đã thúc Giáp mở chiến dịch bao vây và tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Trung Quốc nhấn mạnh chiến dịch Điện Biên Phủ không chỉ quan trọng về quân sự mà còn có ảnh hưởng quốc tế.


Từ trái sang phải : Trường Chinh, Hồ Chí Minh, Trần Canh, La Quý Ba.

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam thông qua kế hoạch tác chiến ở Điện Biên Phủ. Giáp chỉ là người thi hành kế hoạch do cố vấn Trung Quốc Vy Quốc Thanh đề ra. Người hùng Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp đã được cố vấn Tầu nặn ra.
Chính các cố vấn Trung Cộng đã giúp Việt Minh trong các chiến dịch biên giới, Tây Bắc và Điện Biên Phủ. Trung Cộng đã chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ 8286 tấn tiếp liệu gồm võ khí, lương thực v.v… Cố vấn TC có mặt ở mọi đơn vị. Thí dụ họ đã giúp Việt Minh bố trí pháo binh trong các hào sâu trên sườn núi để tránh bị phi cơ Pháp phát hiện và phá hủy. Pháo binh của Việt Minh, được các cố vấn Trung Cộng điều khiển, là một bất ngờ cho quân đội Pháp. Nhưng sự tham dự tích cực của Trung Cộng vào sự thành công của chiến dịch không hề được Giáp nhắc tới trong các bài viết, trong các sách của y như cuốn Điện Biên Phủ: điểm hẹn lịch sử. (The Chinese support for the North Vietnam during the Vietnam War; The Decisive Edge by Bob Seals).
Sự giúp đỡ của Trung Cộng không ngừng ở chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân. Sự giúp đỡ vẫn được tiếp tục trong cuộc chiến xâm lăng miền Nam 1954-1975.

"Về lá cờ chiến thắng trên nóc hầm Đờ Cát" 

 "...không có chuyện cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát như trong phim, ảnh. Sự thực thì khi đó mỗi tiểu đoàn chỉ được phát một lá cờ đỏ sao vàng dưới có thêu chữ "Quyết chiến quyết thắng" và không phải chỉ có Đại đội 360 được giao nhiệm vụ đánh vào sở chỉ huy của địch nên đại đội cũng không có lá cờ nào để cắm trên nóc hầm Đờ Cát lúc đó..." (*) 











Thí quân không thương tiếc







"Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nguyện mang vinh quang trở về!". 

Tại Hữu Nghị Quan, năm 1966 quân chính qui Sư đoàn 62 Cao Xạ Trung cộng giả dạng bộ đội miền bắc tuyên thệ  trước khi nam tiến.Hướng về ảnh Mao đồng thanh hô lớn:
"Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nguyện mang vinh quang trở về!". 





Trung cộng xác nhận đã gởi 320.000 quân tham chiến tại ViệtNam :






Thay lời kết:

"Người hùng" Võ Nguyên Giáp, tướng huyền thoại của Cộng Sản Việt Nam chỉ là một nhân vật đại bịp trong số hàng trăm hàng ngàn tên bịp bợm (trong đó có cả tên Hồ), trong quá trình hiện hữu của đảng Cộng Sản Việt Nam. Y không phải là một thiên tài quân sự như đảng Cộng Sản Việt Nam thổi phồng.
Chính các cố vấn Trung Cộng do Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba cầm đầu đã đánh thắng quân Pháp trong cuộc chiến 1946-1954 chứ không phải là Giáp. Hào quang của Giáp là do Trung Cộng nặn ra, treo vào cổ Giáp. Sự thực các trận đánh lớn, có tính cách quyết định đều do các cố vấn Tầu Cộng thiết kê và điều khiển.
Giáp đã sống trong cái vỏ thiên tài đó trong hơn nửa thế kỷ. Đến nay thì sự thực đã được phơi bầy:
Trong suốt hai cuộc chiến 1946-1954, 1954-1975, Giáp và đảng Cộng Sản Việt Nam đã dựa vào Trung Cộng gần như toàn diện. 
Nay họ đã và đang trả món nợ đó, trả bằng cả số phận của dân Việt, bằng cả đất nước do tổ tiên để lại: Quê hương đang mất dần vào tay người Trung hoa Cộng sản.

Bs. Nguyễn Lương Tuyền   



SINH BẮC TỬ NAM - Đặng Thùy Trâm - Những ước mơ bị phản bội



300 ngàn BỘ ĐỘI VẪN CHƯA TÌM THẤY HÀI CỐT..! TẠI SAO?


Tài liệu đảng cộng sản Việt Nam nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc 
Tài liệu ( I F A ) Institut Franco Asiatique

(*) "Về lá cờ chiến thắng trên nóc hầm Đờ Cát"

Trên báo LAO ĐỘNG, ngày 24-4-2004). Trường hợp của bức hình này cho thấy: có nhiều sự kiện lịch sử đã không được ghi lại qua hình ảnh, nhưng ngược lại cũng có những hình ảnh được gọi là "hình ảnh lịch sử" nhưng thật sự trong đó không có gì là sự thật của lịch sử!


Không có chuyện Việt minh đã bắt được Ban Tham mưu và Tướng Đờ Cát tại hầm chỉ huy . Khi  lính Việt minh xông vào thì hầm trống rỗng. Tướng Đờ Cát và các sĩ quan tham mưu Pháp bị bắt (tình cờ) ven bờ sông Nậm Rốn vào chiều hôm đó. 
Nếu chậm thì Tướng Đờ Cát đã kịp vượt sông xuyên qua Thượng Lào rồi Vàng Pao sẽ cứu. 

Năm (5) lính Việt minh bắt Tướng Đờ Cát ,(vào thời điểm 2004 chết mất 3). Hai người còn lại đã kể lại câu chuyện này trên báo chí trong nước (Tiền phong ..?) nhân dịp 50 năm Điện Biên Phủ. Nhóm lính Việt minh khi xông vào hầm Chỉ huy còn lấy được bàn cạo râu của Đờ Cát , họ dùng mãi đến 2004 mới giao tặng lại cho Bảo tàng quân đội. Tạ Quốc Luận cũng chỉ là sự tích như "anh hùng" Lê Văn Tám.


Từ một bài báo...
Tôi đọc tạp chí "Lịch sử quân sự" số 5-2001 trang 19 có bài của đại tá Trần Quang Vĩ, viết: "14 giờ chiều ngày 7.5.1954, Đại đội 360 vượt hàng rào bùng nhùng, bất ngờ tiến công cứ điểm 507. Địch chống cự yếu ớt rồi bỏ súng giơ tay hàng. Không đầy 15 phút, cứ điểm 507 đã bị đánh chiếm. Ngay sau đó, đài quan sát trung đoàn báo cáo phát hiện có cờ trắng cả hai bên sông Nậm Rốm. Thời cơ đã đến, Ban chỉ huy trung đoàn hạ quyết tâm phải thừa thắng xông lên, lệnh cho Tiểu đoàn 130 và 154 vượt qua các cứ điểm 508, 509, cầu Mường Thanh tiến thẳng vào sở chỉ huy của Đờ Cát.

Nhận lệnh của trung đoàn, Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật chỉ huy trung đội của Chu Bá Thệ vượt cầu Mường Thanh, mặc cho khẩu đại liên 12 ly 7 của địch đang khạc đạn, tiến thẳng vào hầm Đờ Cát. Lúc đầu có đồng chí Vinh và Nhỏ, sau đồng chí Luật tới thì cả năm người (Luật, Vinh, Nhỏ, Lam, Hiếu) xông vào hầm. Đồng chí Luật nói tiếng Pháp bắt tướng Đờ Cát đầu hàng cùng toàn bộ ban tham mưu của ông ta".

Như vậy không có chuyện cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát như trong phim, ảnh. Sự thực thì khi đó mỗi tiểu đoàn chỉ được phát một lá cờ đỏ sao vàng dưới có thêu chữ "Quyết chiến quyết thắng" và không phải chỉ có Đại đội 360 được giao nhiệm vụ đánh vào sở chỉ huy của địch nên đại đội cũng không có lá cờ nào để cắm trên nóc hầm Đờ Cát lúc đó. Ông Vinh cho biết chưa bao giờ, khi kể chuyện bắt sống Tướng Đờ Cát, lại nói đến việc đã cắm cờ trên nóc hầm chỉ huy. Ông cũng đã báo cáo với Tổng cục Chính trị tháng 5.1984, nói với cán bộ Viện Lịch sử Quân sự VN khi về làm việc năm 1983 và trước Hội nghị các nhà báo họp tại Điện Biên tháng 3.1994 về vấn đề này. Ông nói: Sự việc diễn ra vào lúc 5 giờ chiều, ở miền núi đã hết bóng nắng nên cũng không ai cắm cờ để chụp ảnh. Việc chụp ảnh và quay phim là do nhà điện ảnh Karmen (Liên Xô) phối hợp với điện ảnh ta quay phim. Khi quay, kịch bản có cảnh cắm cờ để làm rõ chủ đề chiến thắng. Ba chiến sĩ được chọn ra để phất cờ và vác súng trên nóc hầm Đờ Cát như lâu nay ta thường thấy trong ảnh không phải là nhóm chiến sĩ của đồng chí Luật mà là các chiến sĩ của Đại đoàn 316 dựng lại giờ phút vinh quang của chiến thắng".


... đến việc cố gắng ghi dấu khoảnh khắc lịch sử
Từ bài báo trên, tôi rất băn khoăn về việc có chuyện cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát hay không? Vì từ năm 1954 đến nay, trong ảnh, tranh, cho đến cả con tem bưu chính và các văn hoá phẩm khác khi nói đến chiến thắng Điện Biên Phủ đều lấy cảnh cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát của Karmen quay làm hình ảnh tiêu biểu. Riêng tem bưu chính phát hành 20 mẫu tem trong 6 đợt về Điện Biên Phủ, thì có đến 9 mẫu tem có vẽ hình ảnh cắm cờ. Để tìm hiểu sâu thêm về vấn đề này, tôi đã đi tìm nhân chứng sống là Tạ Quốc Luật, Đại đội trưởng, Hoàng Đăng Vinh và đồng chí Nhỏ, Đào Văn Hiếu và đồng chí Lam ở Đại đội 360, Tiểu đoàn 130, Trung đoàn 209, Đại đoàn 312 hồi ấy thì được biết nay đồng chí Nhỏ và đồng chí Luật đã mất, đồng chí Lam từ khi vào chiến trường miền Nam không rõ nay ở đâu, chỉ còn xác định được địa chỉ của đồng chí Đào Văn Hiếu ở Ngọc Hưng - Nga Sơn - Thanh Hoá, Hoàng Đăng Vinh nay là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh thị xã Bắc Ninh. Tôi đến gặp ông Vinh và được ông Vinh kể lại toàn bộ diễn biến trận đánh và khẳng định: "Không có chuyện cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát vì thứ nhất tiểu đội chúng tôi không mang theo cờ, đại đội của tôi cũng không mang theo cờ, thứ hai là lúc đó đã chiều rồi, cả khu trung tâm đó không có một nhà nào, toàn giao thông hào, tù binh đã được áp giải ra hết và đơn vị chúng tôi cũng rút ra theo".

Như vậy, giờ phút cuối cùng của cuộc chiến này, bộ đội ta chỉ xông vào hầm sở chỉ huy của địch bắt sống Đờ Cát và toàn bộ đội ngũ sĩ quan của ông ra rồi áp giải đi, không có chuyện các chiến sĩ xông lên phất cờ trên nắp hầm Đờ Cát, mà đó là cảnh nhà quay phim Karmen dựng thêm khi quay phim.
Nguyễn Đoàn











"Xẻ dọc Trường Sơn, em vào Nam 
Vượt rừng, bạt núi, rét căm căm 
Em đi quên tháng quên năm 
Tuổi xuân tan nát giữa hầm đạn bom! 
Xẻ dọc Trường Sơn giải phóng ai? 
Ôi em oan nghiệt tấm hình hài! 
Hồn em trong gió thở dài 
Xác em Hà Nội hay ngoài gió trăng?"

Máu và Nước Mắt Trên Lưng Trường Sơn


“Tác phẩm Máu và Nước Mắt Trên Lưng Trường Sơn ra đời nhắm vào đảng CSVN sau khi chúng tôi đọc qua tập Nhật Ký Đặng Thùy Trâm. 
Đặng Thùy Trâm là nạn nhân của chế độ CSVN. 
Đặng Thùy Trâm không là đối tượng tấn công của chúng tôi.
Về mặt nhân bản và dân tộc, chúng tôi trân trọng tình cảm, hoàn cảnh và lòng chân thật của Đặng Thùy Trâm. 
Chúng tôi chỉ muốn ngăn chận tác động giả trá của nhà cầm quyền Hà Nội đã dùng tập NKĐTT cắt xén, thêm bớt và sửa đổi để làm mặt tuyên truyền, xâm nhập vào công luận Hoa Kỳ và giới trẻ Việt Nam. Chúng tôi muốn thế giới và người Hoa Kỳ biết rõ hơn về sự thật và mặt thật của đảng CSVN và chế độ Hà Nội. 
Đó là lý do chúng tôi phát hành quyển sách này bằng cả tiếng Anh, Pháp, Việt để người Tây phương và thế hệ Việt Nam sinh ở trong nước và hải ngoại có thể tìm đọc và hiểu được những gì thật sự xẩy ra trên quê hương cha mẹ các em…”. 



Việt cộng đã yêu cầu THE VIETNAM CENTER tháo gỡ bản dịch Nhật ký ĐTT Anh Ngữ xuống.Để bọn chúng rộng đường sửa đổi,cắt xén và thao túng sự chân thực chính xác của nhật ký ...

(The English language version of the the diaries of Dr. Dang Thuy Tram have been removed from our site at the request of the family....)






Thép đã tôi thế đấy đến Nhật ký Đặng Thùy Trâm:
Những ước mơ bị phản bội
Trần Trung Đạo





Việt cộng trước khi tháo chạy đã tàn sát các đồng đội, thương binh không thể di chuyển cùng với chúng 












Bọn xúi trẻ em ăn cứt gà



Những trẻ em: Nạn nhân của bọn cộng sản Nga, Tàu, Việt cộng

Các em bị bắt trên đường mòn HCM khi xâm nhập vào miền Nam.














Việt cộng tấn công sân bay TSN Sài gòn 1968,trong số 29 VC tử thương có đến 10 em dưới 16 tuổi.



CSBV = cộng sản bắc việt  




 Các em tù binh VC 


  Các em tù binh VC 


Các em tù binh VC - CSMN



 Các em nữ tù binh VC ... Có em dưới 16 tuổi, khi bị bắt đã mang thai 6 tháng...




 Các em bộ đội Việt cộng bị xích chân vào xe tăng trong lúc tấn công. 



CSBV = Cộng Sản Bắc Việt  -  CSMN = Cộng Sản Miền Nam






Sinh Bắc Tử Nam - Mậu Thân 1968

 Các em tù binh VC 



Các em (Bộ Đội) CSBV bị bắt rên đường mòn hồ chí minh khi xâm nhập vào miền Nam




 Các em tù binh VC 



 Các em tù binh VC


Các em tù binh CSBV đang được trao trả về miền Bắc.





Tù binh Việt cộng biểu tình vì không muốn bị trả về miền Bắc, xin HỒI CHÁNH ở lại. 
(QUYẾT KHÔNG VỀ VỚI CỘNG SẢN, THÀ CHẾT Ở MIỀN NAM )






Chó già - Chó chết

Nghe tin con chó chết già,
Nó cùng một bọn: Minh, Đồng, Duẩn, Chinh ...
Tay sai cho lũ Tàu phù,
Toàn quân ăn cướp, tố cha, giết người.
Bao điều tội ác gây nên,
Đầu thai kiếp tới ... làm loài súc sinh.

















No comments: