ĐỪNG NGHE NHỮNG GÌ VIỆT CỘNG NÓI, MÀ HÃY NHÌN KỸ NHỮNG GÌ VIỆT CỘNG LÀM - DO NOT LISTEN TO WHAT VIETCONG SAY, BUT WATCH CLOSELY AT WHAT THEY'VE DONE - "...Ending a conflict is not so simple, not just calling it off and comming home. Because the price for that kind of "peace" could be a thousand years of darkness for generation's Viet Nam borned." RONALD REAGAN "...Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ, cái giá phải trả cho loại "hòa bình" đó, là ngàn năm tăm tối cho các thế hệ sinh tại Viêt Nam về sau."

CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH


BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES - BẤM VÀO HÌNH - CLICK ON PICTURES
@@@@

Thursday, August 23, 2012

DI CƯ 1954 - Cuộc bỏ phiếu bằng chân lịch sử - Passage to Freedom







Để đánh dấu 58 năm, một chặng đường lịch sử đau thương, ngày Quốc Hận 20 tháng 7,1954. Ngày đất nước bị chia đôi hai miền Nam và Bắc do thực dân Pháp và tập đoàn cộng sản Hà nội khởi xướng.
Ngay khi Hiệp định Genève vừa được ký kết, ngày 22 tháng 7 -1954 Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và đồng bào treo cờ rũ toàn miền Nam để tang cuộc chia đôi đất nước, cùng ra bản tuyên cáo cực lực chống đối việc chia đôi Việt Nam, không chấp nhận cuộc chia đôi đất nước. 
(Chính phủ miền Nam và Hoa kỳ cùng phản đối và đã không ký vào hiệp định này)




TÔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM TUYÊN BỒ VỀ HIỆP ĐỊNH GENEVER








(The agreement was among Cambodia, the Democratic Republic of Vietnam, France, Laos, the People's Republic of China, the Soviet Union, and the United Kingdom. The State of Vietnam rejected the agreement. The United States took note and acknowledged that the agreement existed, but refused to sign the agreement, to avoid being legally bound to it.) 







Hệ quả chia cắt đất nước gây nên cảnh hàng trăm ngàn gia đình ly tán: Con mất cha, vợ phải xa chồng, anh chị em mỗi người một ngả... 
  
Để di chuyển hàng triệu người di cư từ miền Bắc vào miền Nam, người Pháp và chính quyền Việt nam quốc gia không thể nào cáng đáng nổi.Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã kêu gọi sự giúp đỡ của Tổng thống Mỹ; Eisenhower hưởng ứng lời kêu gọi đã ra lệnh cho đệ thất hạm đội Mỹ đến Việt Nam giúp đỡ việc chuyên chở người di cư qua (Operation Passage to Freedom)
Hơn một triệu đồng bào miền Bắc đã sử dụng mọi phương tiện để di cư vào Nam để tìm tự do sau khi miền Bắc bị đặt dưới sự kiểm soát của cộng sản Hà nội.


Nếu không bị sự ngăn chận và hăm dọa cùng , lừa gạt với nhiều hình thức của cộng sản miền Bắc thì con số người di cư có thể hơn gấp nhiều lần.
Những tin đồn mà các thủy thủ Mỹ thu lượm được qua những người di cư kể lại lúc lên tầu như do cộng sản Hà nội tung ra như: 

- Người Mỹ cắt tay của trẻ sơ sinh và quẳng đàn bà xuống biển, còn đàn ông thì bắt đi làm cao su cạo mủ tại các đồn điền cao su.
- Tầu há mồm ra đến biển thì há mồm ra, rồi xô đẩy người ta xuống biển. 
- Từng toán xe tải nhà binh tiến vào các làng để bốc hốt đi thật nhanh, kể cả dùng bạo lực cưỡng ép tất cả dân chúng. 

Bên cạnh những tuyên truyền làm lung lạc người tỵ nạn, cùng những áp lực đủ kiểu, qua lối tuyên truyền xảo trá, tạo ra một cơn hốt hoảng tinh thần nơi dân chúng công giáo,cộng sản Hà Nội còn dùng chiêu bài tôn giáo bằng cách nhờ cậy đến phái đoàn tôn giáo Ba Lan nhằm thuyết phục giới lãnh đạo Thiên Chúa giáo miền Bắc theo gương Ba Lan "sống đạo trong lòng thế giới cộng sản".
Những số liệu thống kê tạm thời lúc đó được Việt Nam Cộng chính thức công bố vào tháng 10 năm 1955, đồng bào di cư từ Bắc vào Nam bao gồm 676.348 người Công giáo (76,3 %), 209.132 Phật giáo (23.5 %), và 1041 Tin Lành (0,2 %). Các phân tích này đã không phân loại người di cư theo vùng cư trú trước đây ở miền bắc; tuy nhiên giáo hội đã cung cấp những ước tính về số giáo dân di cư vào Nam từ mười khu  vực các giáo xứ :
Hà Nội:50.000 giáo dân, Hải Phòng: 60.000, Vinh: 57.080, Bùi Chu:150.000, Hưng Hóa: 8.000,  Bắc Ninh:38.000, Phát Diệm: 80.000, Thanh Hóa: 18.500, Thái Bình: 80.000, Lạng Sơn: 2.500.
(Trong khi đó, số người xin di cư hay hồi cư từ Nam ra Bắc chỉ có 4358 người. Ở đây không kể khoảng 60000 cán bộ Việt Minh ở lại miền Nam, rút vào bí mật. )


Cuộc di cư 1954 mở ra cái dấu mốc lịch sử đánh dấu phân chia lằn ranh Quốc - Cộng. Miền Nam là Quốc Gia Tự Do, miền Bắc là Cộng Sản Độc tài. Cho nên, khi bước chân lên tàu vào Nam, người dân miền Bắc di cư nhận được một message rất rõ ràng: Passage to Freedom. Chính vì hai chữ TỰ DO đó, mà bỏ quê hương miền Bắc ra đi. Chết sống phải ra đi. Liều thân mà đi không cần biết tương lai sẽ ra sao? Nhưng chắc chắn ra đi sẽ tốt hơn là sống với cộng sản. 

Ý nghĩa đó cần được ghi khắc cho thế hệ mai sau để sau này, và không cho phép bất cứ ai tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng cuộc di cư lịch sử 1954:
 " CUỘC BỎ PHIẾU BẰNG CHÂN " lớn nhất của lịch sử Việt Nam và thế giới.


Bài nhạc “Xa Quê Hương” của Nhạc sỹ Ðan Thọ.Là một nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc hoài hương của âm nhạc Việt Nam.
Ðan Thọ là một trong những nhạc sĩ di cư từ miền Bắc vào Nam, như Thẩm Oánh, Phạm Duy, Vũ Thành, Hoàng Trọng, Phạm Ðình Chương, Văn Phụng, Nguyễn Hiền hay Nhật Bằng, Tuấn Khanh. 
Lúc ấy, bài “Tình Quê Hương” do ông phổ nhạc từ thơ Phan Lạc Tuyên đã làm mọi người rơi lệ. Thời ấy, những ca khúc của ông viết cùng Nhật Bằng, như “Bóng Quê Xưa” hay “Vọng Cố Ðô” càng làm nghẹn ngào nỗi nhớ quê.
Khi các nghệ sĩ di cư từ miền Bắc đã vui sống tại miền Nam tự do và viết về tình yêu hay chiến tranh, thì Ðan Thọ và Nguyễn Hiền vẫn có một chỗ đứng riêng trong loại tình ca êm đềm về quê hương đã khuất bên kia vĩ tuyến. Bài “Xa Quê Hương” được Ðan Thọ viết cùng Xuân Tiên trong thời kỳ này.Ông gắn bó với quê hương đến cùng, mãi tới 1985 mới đành gạt lệ ra đi, khi đã trên lục tuần.Cùng với Hoàng Trọng, Ðan Thọ xuất thân từ đất Nam Ðịnh vốn có nhiều tài năng về nghệ thuật và cùng chung một khuynh hướng lãng mạn. 
Ông tên thật là Ðan Ðình Thọ, sinh năm 1924, học chữ và học nhạc từ trường đạo Saint Thomas d'Aquin tại Nam Ðịnh rồi học đàn, hòa âm và sáng tác trước khi trở thành tay vĩ cầm trẻ trong phòng trà Thiên Thai của Hoàng Trọng tại Nam Ðịnh. 
Năm 1948, ông gia nhập ban Quân Nhạc Ðệ Tam Quân Khu Hà Nội, cùng với các tên tuổi khác như Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Nguyễn Cầu, Nhật Bằng, Nguyễn Khắc Cung. 
Trong thời gian này, ông học saxophone với quân nhạc trưởng Schmetzler, từ đó sở trường về cả violin lẫn saxophone tenor. 
Ðến năm 1954 ông theo ban quân nhạc di cư vào Nha Trang, rồi đặt chân vào Sài Gòn năm 1956. Tại đây, ông chơi nhạc trong đài phát thanh, truyền hình, phòng trà và còn là trưởng ban nhạc nhẹ của đài Quân Ðội. Những năm về sau, ông là một thành viên cột trụ của ban nhạc Shotguns của Ngọc Chánh.
Ngoài việc trình diễn, Ðan Thọ sáng tác nhiều trong thời gian ấy và được bạn bè quý mến vì cả tài năng lẫn tính tình hiền hòa, vui vẻ. 
Giới yêu nhạc thì nhớ Ðan Thọ với những bản tình ca nhẹ nhàng, những ca khúc nhớ về đất Bắc. 
Nhạc của ông tha thiết, lời của ông trong sáng và các ca khúc của ông đều toát lên vẻ đôn hậu của con người. 
Ông có nhân cách đáng kính của người nghệ sĩ không bị lụy vì âm thanh, ánh sáng hay bóng đèn mờ, dù là người kể truyện rất tếu.Ở ngoài đời là sự hòa nhã và chu đáo của ông.Nhạc sĩ đã có những đóng góp đáng kể trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam.Sau 10 năm khốn khổ dưới sự  thống trị của Việt cộng tại quê nhà, Cuối cùng vào năm 1985 nhạc sĩ Ðan Thọ đành phải giã từ quê hương lần nữa để sống đời tự do tại Hoa kỳ....
























  


















































































































Khu vực tạm cư của đồng bào miền Bắc di cư  
Sài Gòn ngày 7-10-1954.






































Tuyên bố của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà ngày 26/04/1958 về thắc mắc trong vấn đề tái thống nhất đất nước
Trong bức thư đề ngày 07/03/1958, được sử dụng với mục đích tuyên truyền – bởi vì văn bản được phát đi ngay lập tức bởi Đài phát thanh Hà Nội và Đài phát thanh Bắc Kinh – Nhà chức trách Hà Nội đưa đề nghị „thiết lập quan hệ bình thường“, đề nghị xem xét vấn đề tái thống nhất đất nước, hạn chế quân sự và giao thương giữa hai vùng.
Mặc dù đồng bào chúng tôi ở miền Nam và miền Trung Việt Nam đã được thông báo về tính chất lừa đảo của tuyền truyền cộng sản, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cũng phải có trách nhiệm giải thích cho đồng bào ở miền Bắc, những người đang bị cô lập với mọi thông tin xác thực và dư luận thế giới, các mâu thuẫn giữa tuyên bố và hành động của nhà chức trách Hà Nội cùng thực trạng bất lương về những cáo buộc của họ.
Vấn đề thống nhất đất nước và cuộc bầu cử chung
Xin nhớ rằng, Chính phủ chúng tôi đã luôn luôn bảo vệ sự thống nhất của đất nước. Trong Hội nghị Genève năm 1954, phái đoàn Việt Nam đã phản đối mạnh mẽ chống lại ý định của cộng sản Việt Nam. Phái đoàn chúng tôi đã chống việc chia ly tạm thời của đất nước. Chúng tôi đã đề xuất việc thu các đơn vị quân sự của cả hai bên vào một số khu vực hạn chế và sau đó tổ chức cuộc bầu cử tự do dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc. Phái đoàn Cộng sản đã bác bỏ đề nghị trên, họ đòi hỏi chia đất nước từ vĩ tuyến 17 nhằm đạt dân số trội hơn miền Nam. Sau cuộc trốn chạy của hơn một triệu người tị nạn về miền Nam, tại miền Bắc vẫn còn hơn 13 triệu người so với 11 triệu người dân sinh sống trong miền Nam.
Nhờ vào chế độ công an trị và quân đội lớn hơn so với Việt Nam Cộng Hoà, cộng sản tin rằng họ có thể ép dân chúng miền Bắc, dân số cao hơn, bỏ phiếu bầu cho họ ngõ hầu chế độ cộng sản có thể thống trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam và như thế, nền hoà bình trong vùng Đông Nam Á sẽ bị đe doạ.
Từ ý tưởng này người cộng sản đòi hỏi thực hiện một cuộc Phổ thông đầu phiếu tại Việt Nam, trong khi họ luôn từ chối các cuộc bầu cử tự do tại Đức và Đại Hàn, bởi vì trong hai quốc gia này dân số trong vùng họ kiểm soát ít hơn so với các khu vực tự do ; do đó họ không có cơ hội để thực hiện ý đồ đen tối của mình.
Thái độ mâu thuẫn của cộng sản về vấn đề thống nhất đất nước ở các quốc gia bị phân chia cho thấy động cơ thầm kín của họ nhằm thực hiện những cuộc bầu cử không tự do và không thành thật.
Mặc dù nhà chức trách Hà Nội đòi hỏi cuộc bầu cử chung, nhưng họ lại không tổ chức một cuộc bầu cử tự do trong vùng tạm kiểm soát của mình để canh tân cái gọi là Quốc Hội của họ. Quốc Hội này bao gồm một số thành viên được chỉ định và một số thành viên được bầu trong sự hỗn loạn của năm 1946, hiện nay phải đối mặt với thực tế là một số thành viên đã bỏ chạy về miền Nam. Theo quy định trong Hiến pháp của họ, một bản Hiến pháp được hoàn thành không có sự tranh luận, trong một phiên họp chỉ kéo dài có một ngày, thì nhiệm vụ những đại biểu của Quốc Hội này đã được chấm dứt từ hơn 8 năm nay rồi. Cộng sản Việt Nam do đó đã không tôn trọng hiến pháp của chính họ. Đồng thời họ đã thiết lập chế độ Cộng sản ở miền Bắc, mà không trưng cầu ý dân. Và họ không bao giờ trưng cầu dân ý vì họ biết rằng dân chúng sẽ không bao giờ chấp nhận cái chế độ này.
Chính phủ chúng tôi đã tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23/10/1955́, dựa theo đó chế độ cũ được bãi bỏ và chế độ Cộng Hoà đã được thành lập. Sau đó chính phủ chúng tôi đã tổ chức cuộc bầu cử Quốc Hội vào tháng 3 năm 1956 ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Quốc Hội này đã soạn thảo và thông qua một bản Hiến pháp. Hiến Pháp này đã được công bố sau đó.
Những tổ chức dân chủ và các tiến bộ mà chính phủ chúng tôi đã đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội, đã được cảm thông của cả thế giới. Đến ngày hôm nay đã có 56 quốc gia công nhận chính phủ chúng tôi, duy trì quan hệ ngoại giao với chúng tôi, hoặc đã đề nghị chúng tôi được gia nhập Liên Hiệp Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản ở miền Bắc chỉ được sự công nhận của khoảng 10 chính phủ cộng sản. Trong những năm gần đây, ảnh hưởng của Việt Nam Tự Do đã được tăng đáng kể : Nước chúng tôi hiện nay là thành viên của 33 tổ chức quốc tế và Sài Gòn được chọn là trụ sở của nhiều hội nghị quốc tế.
Do đó, rất kỳ lạ khi thấy những người có trách nhiệm phân chia đất nước, không dám tiến hành bầu cử trong vùng tạm kiểm soát của họ và sau đó lại đổ lỗi cho chính phủ chúng tôi từ chối thống nhất đất nước và từ chối bầu cử chung. 

Vấn đề về giao thông đi lại giữa liên khu vực tự do 

Nhà chức trách Hà Nội đã dấu không thông tin cho người dân miền Bắc biết, rằng người dân có quyền chọn lựa khu vực để sinh sống. Với chế độ khủng bố, họ đã ngăn cản các chuyến di tản của dân chúng miền Bắc ; họ đã dùng bạo lực bắt giữ thân nhân những người đã di cư về miền Nam. Tại Ba-Làng và Lưu-Mỹ họ đã nổ súng đàn áp những người đã cố gắng đi đến khu vực tự do.
Họ cũng đã rút ngắn thời gian cho tự do giao thông liên vùng và tự do lựa chọn vùng sinh sống, qua việc qui định thời hạn vào ngày 19 Tháng 5 năm 1955. Sau thời gian này, chính phủ chúng tôi đã đề nghị gia hạn thời gian giao thông liên vùng tự do. Nhưng nhà chức trách Hà Nội muốn huỷ bỏ càng nhanh càng tốt sự liên kết giữa hai khu vực, nhằm ngăn chặn các chuyến tỵ nạn về miền Nam và luôn bày tỏ ý đồ xấu xa này của họ. Do đó nhà chức trách Hà Nội đã chỉ gia hạn thời gian di tản thêm hai tháng, tức là đến ngày 20/07/1955, và trong hai tháng đó họ đã chỉ cung cấp một chiếc thuyền cho những người muốn về miền Nam.
Bất chấp mọi nỗ lực để ngăn cản việc di tản, bất chấp bị khủng bố và trù dập bằng bạo lực và cho dù thời hạn được di tản rất ngắn ngủi, nhưng gần một triệu đồng bào từ miền Bắc đã di cư về miền Nam thành công. Mặc dù đồng bào của chúng tôi ở phía bên kia vĩ tuyến 17 bị mất quyền tự do di chuyển ngay cả trong khu vực sinh sống của mình, ngày nay họ vẫn còn chạy trốn về miền Nam bằng cách vượt dẫy núi Trường Sơn[1], hoặc trong các chiếc thuyền mỏng manh dọc bờ biển. Một số người không may mắn bị rơi vào tay cộng sản và bị giết, hoặc đã bị tra tấn tàn nhẫn. Những người khác đã chết vì kiệt sức trong rừng sâu hoặc là nạn nhân của các cơn bão biển.
Hiện nay có 81123 người và 1955 gia đình đã tự, hoặc qua đại diện của họ, làm đơn yêu cầu được di tản vào miền Nam. Yêu cầu của họ đã được giao cho Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Nhưng nhà chức trách Hà Nội phản đối những yêu cầu này.
Ngoài ra, còn có một số gia đình từ miền Trung và miền Nam Việt Nam đã đòi hỏi cho anh em, chồng con họ, những người đã bị cộng sản dùng bạo lực bắt cóc đưa về miền Bắc, phải được hồi hương. Tổng số đơn yêu cầu về việc này là 11.196, đã được chuyển tiếp đến Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Ngoài các đơn kiện này, còn có rất nhiều trường hợp khác được gửi trực tiếp đến Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến, và số lượng đơn của những trường hợp này không bao giờ được công bố. Qua sự phản đối, chống lại những yêu cầu của người dân được nêu trên, nhà chức trách Hà Nội phải gánh trách nhiệm về tình trạng đau đớn vì chia ly của các gia đình này. Sau khi cộng sản cấm đoán người dân tự do đi lại ngay cả trong khu vực miền Bắc Việt Nam và ngăn chặn những người muốn di tản đi xa, bây giờ thì họ lại rêu rao, tuyên truyền là „tự do đi lại“ và „khôi phục lại mối quan hệ bình thường“.
Vấn đề cắt giảm lực lượng quân sự
Từ 3 năm qua nhà chức trách Hà Nội luôn luôn cổ võ cho hoà bình. Nhưng hành động của họ luôn tương phản lớn với chủ đề tuyên truyền của họ.
Họ đã không dừng lại mà luôn tăng cường lực lượng quân sự và nâng cấp trang bị vũ khí kể từ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực và như vậy là vi phạm Hiệp định Genève do chính họ đã ký kết.
Cần quan tâm đến một giác thư của chính phủ Vương quốc Anh gửi cho Liên Xô ngày 09/04/1956. Là đồng chủ tịch của Hội nghị Genève, chính phủ Anh đã cáo buộc nhà cầm quyền Hà Nội, kể từ khi ngừng chiến đến nay họ đã tăng cường lực lượng quân sự từ 7 lên 20 sư đoàn.
Ngoại trưởng Pháp tháng 3 năm 1958 cho biết, rằng nhà chức trách Hà Nội đã gia tăng quân đội lên đến 350000 quân và công an, cảnh sát lên tới 200000 người.
Họ cũng đã nhập cảng vũ khí từ các nước cộng sản để tăng cường lực lượng quân sự của họ. Trong ba năm qua họ đã không tôn trọng Hiệp định Genève, bởi vì họ chưa bao giờ thông báo cho Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến về việc nhập cảng vũ khí vào Việt Nam.
Mâu thuẫn với thực tế, nhà chức trách Hà Nội tuyên bố rằng họ đã giảm lực lượng quân sự của họ xuống còn 80000 người. Nhưng cho đến nay họ chưa bao giờ nói bất cứ điều gì về con số thực sự quân đội của họ, trước khi hoặc sau khi cái họ gọi là giảm quân. Họ không đưa ra bằng chứng về những lời tuyên bố của mình và không chấp nhận mọi cuộc điều tra.
Họ không có lý do duy trì một quân đội mạnh mẽ hơn Việt Nam Cộng Hoà. Đây là mối đe doạ cho nền hoà bình không những chỉ cho Việt Nam mà còn cho các nước ở trong vùng Đông Nam Á. Để có khả năng duy trì một quân đội to lớn như vậy, nhà chức trách BắcViệt áp đặt mức thuế cao và hệ thống „đấu tố“, với hệ thống này họ đã ép buộc những người vợ, những người con phải tố cáo cha mẹ và chồng mình đã „dấu vàng của nhân dân“. Những người này thậm chí đã phải tự đánh mình và cuối cùng họ bị xử tử ngay tai chỗ mà không thông qua một cuộc xét xử của toà án. Có thể nói rằng dân tộc chúng tôi phải chịu nhiều đau khổ với nhà cầm quyền miền Bắc hơn bất kỳ dân tộc nào khác trên thế giới này.
Ngược lại, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã luôn luôn phục vụ cho nền hoà bình kể từ hiệp định Genève. Để đảm bảo lực lượng lao động cần thiết cho việc tái thiết đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh, chúng tôi đã giảm quân đội từ 242000 xuống còn 150000, đồng thời chúng tôi đã không bổ xung thay thế 180000 binh lính của „Đội quân Viễn chinh“ Pháp. Cộng sản mong muốn duy trì Đội quân này lại ở Việt Nam. Vấn đề giảm lực lượng quân sự được phổ biến rộng rãi, điều này rất dễ kiểm chứng.
Nhân đây cũng xin nhắc lại lời tuyên bố long trọng của Chính phủ Quốc gia vào ngày 6 Tháng 4 năm 1956 là không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào và không cho phép cài đặt căn cứ quân sự ngoại quốc trên lãnh thổ của mình.
Vấn đề trao đổi thương mại
Trong thư đề ngày 07/03 nhà chức trách Hà Nội đã đề xuất việc trao đổi thương mại với miền Nam. Qua đánh giá đề nghị này và qua tin tức nhận được cho thấy rằng đồng bào miền Bắc mong muốn, cầu xin sự giúp đỡ của thân nhân hoặc bạn bè ở miền Nam, có thể một vài mét vải hoặc vài viên thuốc aspirin. Nền kinh tế miền Bắc do sự thống trị của Đảng Cộng sản đang ở dưới đáy vực sâu. Đề nghị của cộng sản không nhằm mục đích nâng cao đời sống của dân chúng miền Bắc. Do hệ thống độc quyền với chính sách nội thương và ngoại thương mà họ đã đề ra là mua sản phẩm nông nghiệp của dân chúng với giá rẻ mạt và bán lại những sản phẩm này với giá cao hơn đáng kể. Mục tiêu của họ chỉ là, thu thập sự phong phú của miền Nam vào ngân sách đảng của họ. Nếu nhà chức trách miền Bắc muốn đề nghị của họ được duyệt xét thì điều kiện đầu tiên là họ phải đặt quyền lợi người dân lên trên lợi ích của đảng. Đồng thời họ phải để cho dân chúng miền Bắc toàn quyền tự do thương mại và từ bỏ sự độc quyền kinh tế mà đảng cộng sản đã chiếm đoạt từ trước đến giờ. 

Vấn đề trao đổi thư từ và bưu thiếp
Mặc dù cộng sản không đề cập đến đề tài này trong thư của họ đề ngày 7 tháng ba năm 58, nhưng họ đã nhiều lần đề nghị nối lại dịch vụ bưu chính giữa hai khu vực. Cho đến hôm nay, cộng sản đã sử dụng các bưu thiếp như một phương tiện tuyên truyền nhiều hơn so với những phong thư được đóng kín. Yêu cầu trao đổi thư từ của họ không ngoài mục đích nào khác là tăng cường chiến dịch đe doạ và ăn xin người dân miền Nam. Vì quyền lợi của dân chúng, Chính phủ Quốc gia không thể thực hiện đề nghị này, nhưng Chính phủ yêu cầu cộng sản khai triển trao đổi bưu thiếp một cách đơn giản để nhân dân của hai Miền có thể liên lạc được với nhau.
Sự thật được mô tả trên đây cho thấy bản chất lừa đảo của các đề nghị của cộng sản, chẳng hạn như tăng cường củng cố lực lượng quân sự của mình, lệnh cấm di chuyển giữa hai khu vực, các vụ giết người muốn di tản về miền Nam, họ đã gây ra những trở ngại để các thân nhân của các gia đình sống tản mác không tìm được nhau và lợi dụng việc trao đổi bưu thiếp nhằm vào mục đích tuyên truyền.
Mâu thuẫn giữa tuyên truyền và hành động của nhà chức trách Hà Nội thật đã rõ ràng. Từ nhiều năm qua thái độ của họ vẫn luôn như một. Để chứng minh thái độ của họ đã thay đổi, họ hãy thực hiện một số hành động cụ thể như sau :
1. Họ hãy để cho 92319 người và 1955 gia đình thực hiện ý nguyện của mình là được di cư về miền Nam, đơn của những người và gia đình này đã nộp cho Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến, để những người này được đoàn tụ với gia đình của họ. 
2. Họ nên giảm lực lượng quân sự của họ tương đương với miền Nam Việt Nam. Việc giảm bớt phải được xác nhận là đúng bởi một Uỷ Ban quốc tế hữu trách. Sau đó vấn đề giới hạn lực lượng quân đội của hai vùng mới được bàn thảo. 
3. Họ cần phải xoá bỏ cái gọi là « Uỷ Ban Giải phóng miền Nam », bằng cách từ bỏ khủng bố, giết dân cư của những làng mạc xa xôi hẻo lánh, phá hoại cơ sở Chính phủ nhằm cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt trong lĩnh vực cải cách ruộng đất và nông nghiệp. 
4. Họ phải từ bỏ sự độc quyền kinh tế của đảng Cộng sản, để nhân dân miền Bắc Việt Nam được làm việc trong hoàn toàn tự do và qua đó, có thể tăng mức sống của họ hiện đã bị giảm xuống đến mức chưa từng có từ xưa đến nay. 
5. Họ không được buộc dân chúng phải cất tiếng ca ngợi họ [2] trong các bưu thiếp. Họ nên giải tán ban biên tập công tác tuyên truyền phục vụ bưu thiếp. Họ không được trả thù những người nhận hoặc gửi bưu thiếp. 

6. Họ phải tôn trọng các quyền tự do dân chủ trong khu vực của họ như ở miền Nam và nâng cao mức sống của dân chúng miền Bắc, ít nhất được tương đương với dân chúng miền Nam ; họ không được dùng chế độ vô nhân đạo của họ để làm cho khoảng cách giữa hai vùng lớn hơn nữa.
Nếu khảo sát các sự kiện kỹ càng, ta sẽ nhận thấy bức thư ngày 07/03/1958 của nhà chức trách Hà Nội có mục đích chủ yếu nhằm tuyên truyền và phá hoại, chống lại sự giúp đỡ của các quốc gia bạn. Cộng sản đã hành động theo đơn đặt hàng của Liên Xô và cộng sản TC, trong lá thư trên đã chỉ trích gay gắt Mỹ và cáo buộc người Mỹ can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam.
Thực tế hoàn toàn ngược lại với những cáo buộc của cộng sản : mối quan hệ Việt-Mỹ hoàn toàn bình đẳng dựa trên luật pháp quốc tế giữa hai nước, cùng tôn trọng chủ quyền của nhau. Tương tự sự liên kết giữa Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà và các nước trong thế giới Tự do. Mục đích mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chỉ nhằm bảo đảm nền hoà bình và tự do.
Mối quan hệ giữa nhà chức trách Hà Nội cùng giới thống trị Nga và TC, thuộc một thể loại khác. Họ là một vệ tinh đối với giới cai trị. Họ là hạ cấp so với thượng cấp trong hệ thống phân cấp của một đảng : đảng Cộng sản Quốc tế. Sự phụ thuộc này không chỉ được thể hiện qua sự đồng nhất của các tổ chức chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội theo kiểu mẫu của cộng sản Liên Xô và TC, mà sự lệ thuộc này còn thâm nhập ngay cả vào lĩnh vực tư tưởng : trong các nghị định và các quy định của họ nhà chức trách Hà Nội bắt buộc dân chúng miền Bắc phải học các hệ tư tưởng cộng sản và sống theo đường lối chính trị của Nga và TC.
Ở miền Nam, không ai bị bắt buộc phải tôn thờ các nhà lãnh đạo ngoại quốc và treo hình ảnh họ trong nhà, ở đây không ai có thể tưởng tượng rằng họ có thể hành xử điều kỳ lạ nêu trên.
Ở miền Bắc, nhà chức trách ép buộc dân chúng phải sùng bái các các nhà lãnh đạo Nga và TC, treo hình ảnh của họ ở nhà và trong những ngày lễ của Liên Xô. Đồng thời họ cấm đoán dân chúng không được phê bình ý thức hệ cộng sản, không được phê bình chính phủ và giới lãnh đạo các nước cộng sản.
Thái độ hèn hạ của nhà chức trách Hà Nội đối với cộng sản ngoại quốc đã huỷ hoại đời sống của dân tộc Việt, và là trở ngại lớn nhất cho công cuộc thống nhất đất nước.
Hệ tư tưởng cộng sản hoàn toàn phản nghịch với truyền thống tâm linh của châu Á và tính chất quốc gia của dân tộc Việt Nam.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc bầu cử tự do, nhà chức trách Hà Nội phải huỷ bỏ chế độ cộng sản mà họ đã áp đặt lên người dân miền Bắc.
Họ không nên nhắm mắt và tự bịt tai. Họ phải học hỏi để hiểu cho ra rằng, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà và Dân tộc Việt Nam không bao giờ chấp nhận cuộc bầu cử không có sự tự do và chân thành.



Sưu tầm và dịch từ văn bản tiếng Đức:                                                                                                                                 “Erklärung der Regierung der Republik Vietnam von 26. April 1958 über die Frage der Wiedervereinigung”                                                                                                                                                   do văn phòng ngoại giao VNCH tại CHLB Đức xuất bản năm 1958. 

[1] bản tiếng Đức ghi là dẫy núi An Nam 
[2] nguyên văn tiếng Đức là : Họ không được buộc dân chúng phải cất tiếng hát những bài ca tụng họ trong các bưu thiếp“






Trẻ em miền Bắc dưới chế dộ Cộng sản



Trẻ em miền Bắc Di Cư vào Nam .. 10 năm sau (1964)


Trẻ em miền Bắc ... 10 năm sau bị bắt trên đường mòn HCM (1964)



Miền Nam kỷ niện 10 năm Quốc Hận


Miền Nam kỷ niện 10 năm Quốc Hận










 



LINK XEM PHIM: CHÚNG TÔI MUỐN SỐNG
http://freevietnews.com/video/viewvideo.php?id=257

1 comment:

vietnamsaigon75 said...

Tuyên bố cuối cùng ngày 21 tháng 7 năm 1954 có nội dung như sau:

1.Các đại biểu tham dự hội nghị đã ký hiệp định đình chiến tại Việt Nam, Lào và Campuchia; tổ chức cơ quan quốc tế giám sát việc thực hiện các điều khoản trong hiệp định.
2.Hội nghị bày tỏ sự hài lòng trước việc chấm dứt chiến sự tại 3 nước Việt Nam, Lào và Cạmpuchia. Hội nghị tin rằng việc thực hiện những điều khoản trình bày trong tuyên bố này và trong những hiệp định đình chiến sẽ tạo điều kiện giúp Việt Nam, Lào, Campuchia có được nền độc lập, tự chủ hoàn toàn.
3.Tại hội nghị, chính phủ Lào và Campuchia đã đưa ra các tuyên bố về việc áp dụng quy tắc cho phép công dân tham gia kỳ tổng tuyển cử dự kiến được tổ chức trong năm 1955 phù hợp với hiến pháp của mỗi nước, thông qua hình thức bỏ phiếu kín và với điều kiện tôn trọng quyền tự do cơ bản.
4.Hội nghị ghi nhận các điều khoản trong hiệp định đình chiến tại Việt Nam, cấm các nước đưa quân đội và nhân viên quân sự cũng như tất cả các loại vũ khí, đạn dược vào Việt Nam. Hội nghị cũng ghi nhận các tuyên bố chung của chính phủ Lào và Campuchia về việc không yêu cầu viện trợ nước ngoài, cả thiết bị chiến tranh, nhân viên hay người hướng dẫn, trừ trường hợp yêu cầu được đưa ra vì mục đích phòng thủ lãnh thổ của họ.
5.Hội nghị ghi nhận những điều khoản trong hiệp định đình chiến tại Việt Nam: không thiết lập căn cứ quân sự mới tại vùng tập kết, mỗi bên có trách nhiệm canh chừng những khu vực tập kết của mình để đảm bảo không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào và không sử dụng khu tập kết vì mục đích tiếp tục chiến sự hoặc phục vụ cho một chính sách hiếu chiến. Hội nghị ghi nhận tuyên bố của chính phủ Lào và Campuchia về việc không tham gia bất kì hiệp định nào với nước khác nếu hiệp định này bao gồm điều khoản phải tham gia liên minh quân sự trái với Hiến chương Liên hiệp quốc.
6.Hội nghị công nhận mục đích chính của hiệp định liên quan tới Việt Nam là để giải quyết vấn đề quân sự theo hướng chấm dứt xung đột và các bên không nên coi đường ranh giới quân sự là biên giới lãnh thổ hay chính trị. Hội nghị bày tỏ sự tin tưởng rằng việc thực hiện những điều khoản đề ra trong hiệp định đình chiến sẽ tạo cơ sở cho việc đạt được một giải pháp chính trị tại Việt Nam trong tương lai gần.
7.Hội nghị tuyên bố, giải pháp cho những vấn đề chính trị ở Việt Nam dựa trên cơ sở tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ sẽ cho phép người dân Việt Nam được hưởng nền tự do cơ bản thông qua kết quả tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức tháng 7/1956.
8.Những điều khoản trong hiệp định đình chiến nhằm đảm bảo sự an toàn cho người dân và tài sản phải được tuân thủ một cách nghiêm túc và phải cho phép mỗi người dân Việt Nam được quyền tự do quyết định nơi họ sinh sống.
9.Các bên không được phép trả thù những cá nhân đã hợp tác với đối phương trong thời chiến cũng như gia đình của những người này.
10.Hội nghị ghi nhận tuyên bố của chính phủ Pháp về việc sẵn sàng rút quân khỏi lãnh thổ Việt Nam, Lào và Campuchia theo yêu cầu của chính phủ những nước liên quan trong thời gian do các bên lựa chọn.
11.Hội nghị ghi nhận tuyên bố của chính phủ Pháp về giải pháp khôi phục và củng cố hoà bình tại Việt Nam, Lào và Campuchia. Chính phủ Pháp sẽ tôn trọng sự tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước.
12.Trong quan hệ với Việt Nam, Lào, Campuchia, mỗi thành viên tham dự Hội nghị Genève sẽ tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước; không can thiệp vào công việc nội bộ của 3 nước.
13.Các thành viên tham dự hội nghị đồng ý hỏi ý kiến nhau về bất kỳ vấn đề nào Uỷ ban Giám sát quốc tế đưa ra.

Không có phái đoàn nào tham dự Hội nghị Genève ký tên vào Bản tuyên bố cuối cùng này. Vì đây chỉ là dự kiến và thông cáo chung, lại không có chữ ký, nên không được xem là có giá trị đồng thuận.